I. MỞ BÀI:
Triều đại nhà Trần là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc Việt Nam. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta không những được thể hiện qua những lần kháng chiến chống quân xâm lược mà còn ở thơ văn đời Trần – tiếng nói của những anh hùng, thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt với lòng mong muốn giữ vững sơn hà xã tắc và nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt. Bởi thế, bài thơ “Tỏ lòng” là lời nói lên khát khao muốn đòi lại độc lập, chủ quyền dân tộc của Phạm Ngũ Lão ( 1255-1320) nói riêng trước cảnh quê hương chìm trong binh đao khói lửa với ý chí nam nhi quân tử “Nam nhi chí ở bốn phương” của những người thanh niên trẻ thời xưa nói chung:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
II. THÂN BÀI:
1. Giải thích nhan đề:
"Thuật hoài" : "Thuật" là kể lại, là bày tỏ; "hoài" là nỗi lòng.
→ "Tỏ lòng": bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng và được ra đời trong hào khí Đông A ngùn ngụt giữa sự quyết chiến, quyết thắng của quân dân nhà Trần khi giặc Mông-Nguyên sang xâm lược.
2. Phân tích câu thơ đầu:
Múa giáo non sông trải mấy thu
(Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu)
- “Múa giáo”: Hình ảnh rõ nét về người tráng sĩ hiện lên trong tư thế múa giáo đầy ấn tượng, nhưng có lẽ đã vơi bớt phần hiên ngang, hùng vĩ so với bản gốc cầm ngang ngọn giáo “hoành sóc”.
→ Không phải ngẫu nhiên mà có sự sắp xếp để miêu tả sống động, chân thực nhất của hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc về không gian lại vừa mang kích thước thời gian.
- “Trải mấy thu”: qua bao lần thu đến rồi đi, hình ảnh kia vẫn không một chút suy dời, vẫn vững vàng như vậy.
→ Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần đã được hun đúc từ bao nhiêu cuộc chiến, bao nhiêu thử thách chông gai.
3. Phân tích câu thơ thứ hai:
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
(Tam quân tì hổ khí thôn ngưu)
- “nuốt trôi trâu”: biện pháp nghệ thuật cường điệu hoá + thủ pháp ẩn dụ so sánh sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi.
→ Nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta mà tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ. Tất cả như không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc và cụ thể hóa sức mạnh của quân dân ta, mà còn phản ánh một thời kỳ lịch sử hào hùng của thời Trần.
4. Phân tích câu thơ thứ ba:
Công danh nam tử còn vương nợ
(Nam nhi vị liễu công danh trái)
- Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách hay cái tầm vóc, sức mạnh, mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ.
- Quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.
- “vương nợ” : tức chưa trả xong, có lẽ đó chính là món nợ công danh - gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng trung thành cũng là vì nước, vì sự nghiệp lớn lao "cùng trời đất muôn đời bất hủ"..
→ Một quan niệm nhân sinh cao đẹp, tích cực của những con người chân chính dù trong thời đại chiến tranh, loạn lạc nhưng vẫn đang hừng hực mưu cầu được đóng góp cho non sông đất nước.
5. Phân tích câu thơ cuối:
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
(Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu)
- “thẹn”: chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước.
+ vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói.
+ vì so sánh mình với Vũ Hầu để thấy những cái chưa được của mình.
+ vì chưa khôi phục được giang sơn, vì kém cỏi chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân.
→ Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường.. Ẩn sau nỗi thẹn cao cả, làm nên nhân cách là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc.
6. Đánh giá nghệ thuật:
Thuật hoài là một bài thơ chịu ảnh hưởng ý thức hệ phong kiến và mang rõ tính chất “thi dĩ ngôn chí”, đồng thời mang tính thời sự: Khi đất nước lâm nguy, vai trò của người anh hùng vô cùng quan trọng. Với thể thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt cùng niêm luật chặt chẽ kết hợp những phép tu từ so sánh phóng đại, đặt con người trong mối tương quan không gian với thời gian, thêm âm hưởng hào hùng, nhịp điệu chắc khỏe, ngôn ngữ hàm xúc, cô đọng, Phạm Ngũ Lão đã đạt được tới sự hàm súc cao độ khi tái hiện lại một cách hoàn mĩ nhất hình ảnh sức mạnh và khí thế của quân đội nhà Trần, ngân lên một nốt thăng của hào khí Đông A mà cho đến ngày nay vẫn còn vang vọng mãi.