Trong một đêm mưa giữa rừng, khuya và lạnh. Trên chặng đường hành quân đi chiến dịch, trong mái lều xơ xác bập bùng ánh sáng và hơi ấm ngọn lửa, anh đội viên nhìn thấy Bác không ngủ, ngồi lặng yên bên bếp lửa. Không gian với bóng đêm và ánh lửa đã tạo nên sự đan xen giữa hai mảng sáng – tối, thành cái phông nền đặc biệt, làm nổi bật hình ảnh vị lãnh tụ đáng kính. Lần đầu thức dậy, anh đội viên thấy Bác hiện lên trong dáng ngồi lặng yên với vẻ mặt trầm ngâm nghĩ ngợi. Anh ngạc nhiên rồi mới vỡ lẽ. Trong sự tĩnh lặng của đêm rừng, Người đang trầm ngâm suy tính việc nước. Anh biết vậy, nên không muốn làm cắt đứt dòng suy tư của Bác, anh lặng lẽ đắm say ngắm nhìn người Cha già đang vun đống lửa sưởi ấm cho các anh nằm. Lòng yêu thương kính trọng càng sâu sắc hơn nữa khi anh nhận ra: Bác không chỉ lo việc nước, Bác còn đang chăm chút cho chính cuộc sống của các anh. Và cứ mỗi giây phút thời gian trôi đi, anh lại nhận ra có thêm biết bao ưu tư vương lại và đè nặng lên dáng hình của Bác. Những câu thơ như khắc như họa những nỗi niềm ấy. Nhà thơ như đang tạc vào không gian một bức tượng mà nét khắc là bóng đêm và sắc màu là ánh lửa. Đến đây thì anh biết rằng mình không thể giả vờ ngủ lâu hơn nữa để được nhận lấy niềm thương yêu chăm chút ấy, để được vị kỉ dành riêng cho mình quyền được lặng lẽ ngắm nhìn, chiêm ngưỡng Bác. Anh phải có trách nhiệm bảo vệ sức khỏe cho Người. Phút bừng ngộ khiến trong trái tim anh, hình ảnh Bác hiện lên không chỉ thiêng liêng, kì vĩ mà còn gần gũi, thân thuộc: “Bóng Bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng”. Anh hiểu được tấm lòng của người Cha già dân tộc, cao cả mà bình dị, nồng ấm. Tình cảm ấy kéo gần những khoảng cách xa xôi, chan hòa những tôn ti thứ bậc, nó khiến anh dám chia sẻ với Bác xúc cảm của mình. Nhưng anh đã không thuyết phục được Bác chợp mắt. Anh bồn chồn, lo lắng, thao thức bởi biết bao tình cảm đan xen, bộn bề. Anh đã chìm đi trong giấc ngủ với biết bao trằn trọc lo toan ấy để phải “hoảng hốt giật mình” khi lần thứ ba thức dậy.