Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở là một quyền Hiến định, được quy định tại Điều 22 Hiến pháp năm 2013. Theo đó:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định.
Khoản 1 Điều 12 Luật cư trú 2006 diễn giải khái niệm về chỗ ở hợp pháp của công dân như sau: Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về căn cứ khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu điện, bưu phẩm thì việc khám chỗ ở chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong chỗ ở của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Quy định này được thay thế bằng Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018).
Như vậy, chỗ ở của một người là nơi người đó sống đời sống riêng thường ngày, cũng là nơi cất giữ những bí mật đời tư bao gồm bí mật của cá nhân và gia đình người đó. Kết hợp các quy định trên, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở có thể hiểu là quyền của mỗi công dân được toàn quyền cho phép hoặc không cho phép người khác vào nơi ở của mình.
Về chế tài, người thực hiện hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của người khác có khả năng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự xã hội theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Về hình thức xử phạt, tùy thuộc vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà người vi phạm có thể bị áp dụng biện pháp cảnh cáo, phạt tiền; bên cạnh đó còn có thể bị áp dụng thêm hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả với mức độ khác nhau.