Thế rồi âm thanh bất ngờ được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Đó quả là sự liên tưởng phong phú: lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông – một cách kích thích trí tưởng tượng của người đọc đầy mới mẻ và táo bạo. Và để tô đậm thêm cái nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn phối hợp giữa tả và kể, nhiều bè gỗ đi bị cái giếng ấy nó lôi xuống, có thuyền bị cái hút nước nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược,... Nhà văn có vẻ thích thú như muốn khám phá lòng cái hút nước này bằng điện ảnh để xem nét đẹp hung bạo của con sông: Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà.
Sự hung bạo của sông Đà khiến nó như một chiến địa dữ dội với những nét phi thường, khác lạ qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt là “chân trời đá” bày trùng vi thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người. Người ta nói Nguyễn Tuân là bậc thầy phủ thuỷ của ngôn từ, thổi hồn người vào sự vật vô tri vô giác. Cái đôi đũa thần ngôn từ của người chạm vào đâu thì những tảng đá như nổi hình nổi dáng, phảng phất linh hồn đầy sống động. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết lòng sông”, mỗi hòn có nhiệm vụ riêng, bộ mặt độc đáo, hình dáng không giống nhau: “Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm, hờn thì méo mó, hòn thì oai phong, bệ vệ, lẫm liệt”. Với trí tưởng tượng phong phú, cách dùng từ tinh vi, quan sát kĩ lưỡng cùng kiến thức phong phú, bãi đá ngầm được bố trí công phu, khéo léo với ba trùng vi kiên cố. Mỗi trùng vi được thiết kế theo một sơ đồ riêng đảm nhiệm chức năng riêng. Trùng vi thứ nhất dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, chỉ có một cửa sinh lệch về phía tả ngạn sông. Trùng vi thứ hai nó tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang phía hữu ngạn. Trùng vi cuối cùng, ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại ba trùng vi thạch trận này, người lái đò đã trải qua những giây phút thập tử nhất sinh, chỉ cần khinh suất hay lơ là một chút thôi thì sẽ phải trả giá bằng tính mạng mình. Bằng hệ thống từ ngữ, hình ảnh nhân hóa phong phú, độc đáo, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sông Đà hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau khiến ta như lạc vào trận địa đủ thiên la địa võng. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người chinh phục. Đấy là "vàng trắng" quý báu của đất nước chúng ta.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa, quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, âm nhạc… đã tạo nên bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Với một ý thức ngôn từ giàu sức tạo hình, vốn từ ngữ phong phú, biến hóa, được tung ra đúng lúc, đúng chỗ, Nguyễn Tuân đã không chỉ dừng lại ở việc tạc khắc vào tâm trí người đọc tính cách bạo tạn, có một không hai của con sông Tây Bắc ; mà người còn thành công trong việc truyền hồn cho chữ, từ đó chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc, để rồi trở thành một công trình thẩm mĩ, một kì công nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng con người chỉ với tính cách hung bạo, dữ dội ấy.
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp một nền văn minh. Trong địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta đã từng được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, man mác buồn trong “Tràng Giang” của Huy Cận nhưng gây ấn tượng khó phai vẫn là con sông Đà vừa bang bạc, cao cường, bí ẩn nhưng cũng rất nhuần nhị, trữ tình. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với vẻ ngang tàn, mạnh mẽ, không khác gì “kẻ thù số một” của con người. Nhưng có lẽ khi đã yêu mảnh đất này, Nguyễn Tuân có thể cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng, chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh:
“Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.”