Bởi vì thứ nhất, nó là kháng nguyên để chế ra huyết thanh chống nọc độc rắn. Chúng ta biết rằng ở nông thôn và miền núi, hiện tượng bị rắn độc cắn rất phổ biến. Trước kia, người ta thường dùng một số thảo dược truyền thống để đối phó với vết rắn cắn, có lúc hiệu quả rất tốt, có lúc lại không lí tưởng lắm. Nguyên nhân chủ yếu là do thành phần có độc chứa trong các loại rắn độc không giống nhau. Năm 1896, ca lâm sàng đầu tiên sử dụng huyết thanh chống nọc độc rắn hổ mang ra đời. Từ đó đến nay trên thế giới đã sản xuất ra hơn 80 loại huyết thanh chống độc rắn với chủng loại khác nhau. Thực tiễn một thế kỉ qua đã chứng minh, đối với vết rắn cắn thì huyết thanh chống nọc độc rắn vẫn là vị thuốc đặc biệt hàng đầu.
Thứ hai, nọc độc rắn còn có tác dụng cầm máu và chống đông máu. Khi trong cơ thể người bình thường sự cân bằng giữa hai cơ chế đông máu và chống đông máu bị phá vỡ sẽ xuất hiện chảy máu nhiều hoặc là tạo nên tắc động mạch. Cách đây không lâu, các nhà khoa học đã phát hiện nọc độc của rắn cạp nong có hiệu quả chữa trị rất tốt đối với các loại chảy máu, chất xúc tác este axit amin tinh được luyện ra bởi nọc độc của rắn lao lại có tác dụng chữa trị rõ rệt đối với các di chứng như bại liệt, đau tim do tắc động mạch máu và xuất huyết máu gây ra.
Ngoài ra, nọc độc rắn khác nhau còn có thể có tác dụng lên sự đau đớn ở các vị trí khác nhau của cơ thể người; các proteinoit được tách ra từ trong nọc độc rắn cũng là công cụ nghiên cứu hữu hiệu của di truyền học và y học. Gần đây, người ta còn tiến hành thử nghiệm đối với công hiệu đặc biệt chống ung thư của nọc độc rắn, hiệu quả cũng tương đối rõ rệt.
Chính bởi vì nọc độc rắn đã phát huy được tác dụng ngày càng quan trọng trong lĩnh vực y học, lượng nhu cầu ngày càng lớn. Nhưng nó chỉ có thể lấy được thông qua rắn độc sống, nhưng số lượng nọc độc rắn mà một con rắn có chứa chỉ có rất ít, do vậy, nọc độc rắn rõ ràng là rất quý giá, có khi quý hơn cả vàng.