-
-
Văn học như bầu trời đón gió muôn phương,nó mời mọc biết bao tri kỷ say cùng
nó từng dáng chữ.Bầu trời văn học ấy là không biên giới,nó làm người ta mải mê
với bao cuộc tìm kiếm,tìm câu trả lời chưa được giải mã,tìm những khuất lấp chưa
được giãy bày,tưởng như tìm thay cho từng con chữ vậy.Cho đến khi ta bắt gặp
một lời nhận xét đúng đắn từ R.Ingarden-giáo sư người Ba Lan: “Mọi tác phẩm
văn học đều dang dở”.Ta chợt hiểu,sự “dang dở” ấy,sự khuất lấp ấy đòi hỏi luôn
có những cuộc “dấn thân” tìm tòi vô hạn,kéo dài một đời người hoặc cả một đời
nhân loại trong bầu trời rộng lớn của văn học.
Nói đến tác phẩm văn học,người ta bàn luận đến rất nhiều vấn đề.Riêng về phát
biểu của Ingarden ông nhấn mạnh về sự “dang dở” ở mỗi tác phẩm văn học một
cách ngắn gọn,xúc tích nhưng mở ra cho ta nhiều vấn đề lí luận văn học hiện đại.
“Dang dở” ở đây không có nghĩa là sự thiếu hụt của các tác phẩm về số lượng, nội
dung hay hình thức.Mà là tính không cố định,tính mơ hồ đa nghĩa của các tác
phẩm văn học.Sự tồn tại của nó trong dòng lịch sử văn học không tĩnh mà
động,không phải là sản phẩm cố định mà tác phẩm như là quá trình.Ở đó mỗi
người đọc phải luôn tìm thấy những điều mới mẻ,lạ lẫm,tựa như đón một luồn
gió mới,một linh hồn mới trong không gian cũ kĩ chập hẹp quen nhàm của mình.
Cái “dang dở” ấy luôn phải tạo ra những khoảng cách thẫm mỹ nhất định.Ở đó
ta phải tìm tòi,đào xới để vượt qua “sự đồng nhất thẫm mỹ” tối đa mà người đọc
muôn thuở cho là hay là đúng.Giống như mọi tác phẩm luôn đòi hỏi sự bổ sung để
toàn mỹ hơn,và càng là tác phẩm lớn ta càng không biết đâu là chân trời giới
hạn.Qua bao thế kỉ,sự mài giũa nghiệt ngã của thời gian đã làm sáng thêm những
tác phẩm toàn bích.Nhưng càng toàn bích nó lại càng cần khám phá,khám phá
được càng nhiều tác phẩm lại càng trường vĩnh.Văn học giống như những yêu
tinh cuốn hút lòng người,cho nó ăn no nó sẽ chết,chỉ có giữ nó mãi “đói khát” mới
có thể sống sót.Nói đến đây,tôi bỗng nhớ câu thơ của Hồ Dzếch,sự “dang dở” ấy
tạo nên cuộc sống vô hạn định cho muôn đời tác phẩm: “Thơ viết đừng
xong,thuyền trôi bến đỗ”.Giống như nhận định chắc chắn của Ingarden,Hồ Dzếch
cũng dự trù được tương lai nơi những tác phẩm đỗ bến,sẽ chỉ đẹp và vui khi còn
“dang dở”.Có lẽ chỉ trong văn học các nhà văn mới có quyền và bắt buộc phải tạo
nên những khoảng trắng,khe rỗng trong tác phẩm.Những lĩnh vực khác phần lớn
đều đòi hỏi một sự chuẩn xác nhất định,tuyệt đối.Thơ ca chỉ có giá trị khi nó “
nhòe nghĩa”,tự thân nó phải mở ra được một vùng trời liên tưởng cho người
đọc,mênh mang và vô tận.Lời phát biểu ngắn gọn của Ingarden mang một sức
1
-
-
chứa to lớn,nó cho ta biết sức sống của một tác phẩm văn học dựa vào đâu để
tồn sinh, vì “mọi tác phẩm văn học đều dang dở” nên cái “dang dở” đó mới là sức
mạnh nội tại giúp tác phẩm vượt qua “trăm lần thử lửa” của muôn đời.
Vậy “dang dở” bắt nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có lẽ từ quá trình sáng tác của mỗi
nhà văn.Nếu ta coi giai đoạn nảy sinh ý đồ nghệ thuật của người nghệ sĩ là “hoài
thai”,thì ta cũng có thể coi giai đoạn tác phẩm rời khỏi ý thức nhà văn và tồn tại
độc lập là giai đoạn “cắt rốn”.Nghĩa là từ đây đời sống văn học của tác phẩm bắt
đầu,nhà văn không thể sửa chữa hay bổ sung một số chi tiết tiếp tục nảy nở.Và
chúng ta hay nhầm lẫn khái niệm về văn bản văn học và tác phẩm văn học.Văn
bản chỉ là những gì nhà văn viết trong quá trình sáng tác,chưa thông qua sự tiếp
nhận của người đọc.Còn tác phẩm văn học là “con đẻ” của nhà văn đã thông sự
tiếp nhận,không còn nằm thẳng đơ nơi trang giấy.Do đó về sự “dang dở” của tác
phẩm ta còn có thể hiểu là qua quá trình sáng tác,tác phẩm có thể bị “dang dở” vì
chưa đến tay người đọc hoặc tác phẩm bị lãng quên,bị cắt đứt con đường tồn
tại.Hơn ai hết người đọc còn phải “giải mã” được những “mã khóa” nơi tác phẫm
để tiếp xúc với một thế giới tinh thần đầy biến động và luôn thay đổi.
Khi ta bắt đầu bước vào nền văn học thế kỉ X-XVII,ta đã thấy thấp thoáng bóng
hình những nhà thơ có ý thức cách tân,thể hiện theo cách riêng về mặt tiếp tấu
nhịp điệu.Nguyễn Trãi cũng từng tả cái sắc hè chứa đựng nhiều gam màu nóng:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
(Cảnh ngày hè)
Cách ngắt nhịp có thể tạo ra nhiều cách hiểu.Thơ Nguyễn Trãi làm cho người
đọc có thêm nhiều cách hiểu sở dĩ cũng chính vì ý thức cách tân nghệ thuật ở ông
luôn tồn tại.Một người có thể cách tân thơ thất ngôn bát cú bằng một câu lục “Rỗi
hóng mát thuở ngày trường” thì chắc chắn có thể tạo nên những lối ngắt nhịp độc
đáo,mở ra vô vàn bầu trời lien tưởng cho người đọc.Có người thích ngắt theo kiểu
3/4 tưởng miêu tả cái sắc hoa thạch lựu đỏ trộn chung hương sót nơi sen hồng.Có
người cho rằng có thể ngắt nhịp 2/1/4 để cả hiên thạch lựu phun đỏ ao sen hồng
tỏa hương nhuộm màu nhuộm sắc trong đôi mắt tác giả.Với riêng tôi càng là nét
bút tinh tế mộng ảo,đa nghĩa lại càng lôi cuốn,tôi tưởng như Nguyễn Trãi đang
dùng dằng cùng thiên nhiên không muốn tách biệt,vì cả sắc và hương tựa như đã
nhập vào khung cảnh vào lòng người tự lúc nào.Hay đến vị Bạch Vân cư sĩ ung
dung tự tại cũng nhập mình vào cuộc sống thiên nhiên dân dã:
“Một mai,một cuốc,một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
(Nhàn)
2
-
-
Có người nói,Nguyễn Bỉnh Khiêm đang đếm nông cụ giống hệt như một lão nông
tri điền,vui thú nhàn dật.Còn có người lại cho rằng hình ảnh ấy của Nguyễn Bỉnh
Khiêm giống như Kha Tử Nha ngồi câu cá bằng lưỡi câu thẳng đang đợi
thời.Nhưng riêng tôi,câu thơ như có gì cô đơn lắm,bảy chữ một dòng mà hết hết
ba chữ “một”đánh động vào mắt,giống như chỉ còn một mình ta với ta,thơ thẩn đi
cùng “một mai,một cuốc,một cần câu”,lặng lẽ đi riêng một con đường mà tưởng
như không có lấy một người tri ngộ.Tiếng thơ như mở một ngõ nhìn cho bạn
đọc,ai cũng giữ lấy riêng cho mình một cách hiểu,để tiếng thơ xuất phát từ thế kỉ
XVI này còn mãi nghìn đời.
Đến thế kỉ XVII-XVIII ,khi con người còn sống trong hoàn cảnh tối tăm, bị tước
đoạt quyền sống và bị định giá phận người, nền văn học ta đã bắt gặp những hồn
thơ nhân đạo,muốn phản kháng phá nát cái cũi mục ấy.Họ bị giam cầm,bị trói
gông cột xiềng vào bao định kiến “nam tôn nữ ti”,cái bi kịch đó hóa vào thơ ca
ngàn đời mang những trái tim vàng rơi tràn nước mắt.May mắn thay Nguyễn Du
đã xuất hiện như trái tim vàng mà đời mong mỏi,cất nên tiếng nói lòng nơi đáy
hồn họ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều)
Khi kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ra đời,đã bắt gặp bao ý kiến trái
chiều,chê trách. Thúy kiều đã từng bị cụ Nguyễn Công Trứ kết tội tà dâm:
“Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”
Vào mỗi thời kì lịch sử cách hiểu mỗi tác phẩm văn học khác nhau tùy thuộc vào
chuẩn mực văn hóa ,đạo đức,cách hiểu nông sâu của mỗi người về trình độ văn
hóa,vốn sống,độ nhạy cảm về tinh thần hay cả tâm thế tiếp nhận để tìm hiểu .Cho
nên có những người gọi “Truyện Kiều” là dâm thư.Còn có người coi Kiều như hiện
thân cho sự hi sinh thân mình để giữ gìn cương thường luân lí phong kiến:
“Ngẫm lại cổ kim người hào kiệt
Một thân mà gánh đạo cương thường”
( Tự Đức)
Hay như những nhà nho cho mình rằng sinh lầm thời coi Kiều giống như kiếp
người tài hoa bạc mệnh:
“Đoạn trường trong mộng căn duyên hết
Bạc mệnh đàn xong oán hận còn”
Nhà văn trước cách mạng coi Kiều như con người của nhân tính muôn thuở,còn
nhà văn cách mạng coi Kiều qua cảm hứng tố cáo đòi quyền sống. Số phận“Truyện
-