1. MỞ BÀI:
Có những kí ức đã qua đi nhưng lòng người chưa bao giờ quên được. Đó chính là vào giai đoạn chuyển giao khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc để trở về Hà Nội. Đây còn là khúc giao thời của lòng người: liệu cuộc sống hòa bình, yên vui có làm cho người ta quên đi những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử, hòa bình có làm người ta quên đi những tháng năm gian khổ, nghĩa tình: “ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Chỉ những lúc dễ quên nhất ấy, thi phẩm “Việt Bắc” được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu xuất hiện trong tập thơ cùng tên vừa ôn lại một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng, vừa như một lời nhắc nhở tâm tình thể hiện tình cảm gắn bó giữa người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng. Từ đó làm tiền đề cho những kỉ niệm hiện về qua hai mươi câu thơ phần đầu bài thơ, tái hiện một Việt Bắc trong tình yêu và nỗi nhớ – như một khúc ân tình trong bài ca trữ tình – chính trị “Việt Bắc” đằm thắm vào bậc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
…
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”.
2. THÂN BÀI:
2.1. Giới thiệu đôi nét về Việt Bắc: Việt Bắc được xem là cái nôi của cách mạng, ở đây có Pắc Pó, nơi Bác Hồ đặt chân đầu tiên khi Người trở về nước, ở đây diễn ra hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, thành lập mặt trận Việt Minh. Việt Bắc còn có mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc là chiến khu vững chãi, nơi trú đóng của các cơ quan trung ương của Đảng và Nhà nước…
2.2. 4 câu đầu: tác giả mượn lời người Việt Bắc gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa để nói với người về xuôi
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy, khơi dậy cả một quá khứ đầy kỉ niệm.
- Câu hỏi tu từ “mình về mình có nhớ ta”, “mình về mình có nhớ không”: những người ở lại luôn trăn trở băn khoăn tự hỏi liệu kẻ đi có còn nhớ mình không.
- Cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” được lặp lại nhiều lần ® cách xưng hô thân mật thường thấy trong ca dao được Tố Hữu vận dụng khá linh hoạt.
- “mười lăm năm ấy”: chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn.
→ Chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng, xoáy vào tâm can của người hỏi, thể hiện trách nhiệm của nhân vật trữ tình.
2.3. 2 câu tiếp: nỗi nhớ đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian "núi rừng" và "sông nguồn"
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Không gian có "núi", có "nguồn": không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi.
→ Việt Bắc - nơi ngọn nguồn, nơi khai sinh ra phong trào cách mạng trong mười lăm năm đầy kỉ niệm mến thương.
2.4. 4 câu tiếp: cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi
“Tiếng ai tha thiết bên cồn,
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
- Ba từ láy "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn": tạo ra hiệu quả nghệ thuật đặc biệt: sự hô ứng đồng vọng của cảm xúc đã được biểu thị bằng bước chân ngập ngừng, dùng dằng níu kéo.
- Tiểu đối “bâng khuâng.. bồn chồn” : công cụ làm tăng thêm biết bao nhớ vấn vương lưu luyến.
- “Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
→ Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một chút nhịp điệu, như một đảo phách trong âm nhạc.
- Hoán dụ màu “áo chàm” đặc trưng của những con người chân chất miền núi Tây Bắc cho thấy sự đơn sơ, mộc mạc của chốn quê nghèo, nghèo vật chất nhưng luôn giàu tình cảm.
- Hình ảnh “cầm tay”: Đôi bàn tay của những con người cầm súng nâng niu đôi tay của những người lao động đều chung một nỗi tâm tình.
- “Biết nói gì”: không phải không biết nói gì, không có gì để nói mà là biết nói sao cho thỏa khi nỗi nhớ thương đang dâng đầy.
→ Tình cảm của đồng bào Việt Bắc dành cho người chiến sĩ cách mạng quá lớn, quá sâu đậm, không thể trong một lời mà nói hết được.