Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang trong phong thái của một khách lãng du, mê đắm, thưởng ngoạn, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên họa của dòng sông. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng đọng về một thời Lí, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vừa vượt qua ghềnh thác Sông Đà, ai nghĩ nó lại có một quãng sông lặng tờ đến vậy ? ấy thế mà điều đó lại đang hiện hữu khi Đà giang trữ tình nhất ở quãng trung lưu với vẻ đẹp tĩnh lặng, thanh bình, hoang sơ, cổ kính: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Và Nguyễn Tuân cảm nhận Sông Đà từ một điểm nhìn đặc biệt: nhìn Sông Đà như một cố nhân để khám phá chất thơ trong từng cảnh sắc thiên nhiên. Từ đó mà quá khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.
Đến quãng sông này, Sông Đà như một dòng sông vắt qua thời gian, như một chứng nhân im lặng đang âm thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại với thiên nhiên, với bờ bãi ven sông bởi dường như, giữa con người và thiên nhiên có một mối chan hoà, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ,chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Vậy là con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình? Cuộc đối thoại tưởng tượng ấy khiến cho thiên nhiên như hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ, nằm ngoài những biến động, âm thanh của cuộc sống con người mà làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái đẹp. Đặc biệt, đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà có sự đồng điệu trong cảm xúc liên tưởng đến thơ Tản Đà “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” tựa như mọi chuyển động đều cố gắng để không làm ảnh hưởng đến cái dòng chảy tĩnh lặng như thời tiền sử ấy.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa, quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, điện ảnh, hội họa, âm nhạc… đã tạo nên bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Với một ý thức ngôn từ giàu sức tạo hình, vốn từ ngữ phong phú, biến hóa, được tung ra đúng lúc, đúng chỗ, Nguyễn Tuân đã không chỉ dừng lại ở việc tạc khắc vào tâm trí người đọc tính cách thơ mộng, trữ tình đến mức tuyệt mĩ của con sông Tây Bắc ; mà người còn thành công trong việc truyền hồn cho chữ, từ đó chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc, để rồi trở thành một công trình thẩm mĩ, một kì công nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng con người
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp một nền văn minh. Trong địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, linh hồn của dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên như bức họa nên thơ đậm chất phong tình, lãng mạn. Bởi lẽ khi đã yêu mảnh đất này, Nguyễn Tuân có thể cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp khiến người đọc phải công nhận rằng văn ông không chỉ là tòa lâu đài chữ nghĩa hay là bể thẳm tâm hồn không những đẹp về mặt ngôn từ, mà còn có giá trị nghệ thuật rất đặc sắc mà hậu thế phải công nhận.