I. MỞ BÀI
Có một bài ca không bao giờ quên…”
Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Vậy là tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã khắc họa một cách vĩnh cửu vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Với chất lãng mạn đa tình của nghệ sĩ song hành với chất anh hùng của những người chiến sĩ Tây Bắc hiểm trở, đã cho ra đời thi phẩm “Tây Tiến” với âm hưởng bi tráng, hào hùng. Bài thơ trích tập “Mây đầu ô”, được Quang Dũng sáng tác năm 1948, sau khi tác giả rời đơn vị và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với đoàn binh “Tây Tiến”. Với khổ thơ thứ ba, thi nhân không chỉ hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân mình với bao nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc mà còn là bản hùng tráng ca về hình tượng người lính oai phong, lẫm liệt hay chăng cũng là người nghệ sĩ tạc nên dáng hình đất nước:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
II. THÂN BÀI
1. Giải thích nhan đề:
Nhắc đến Quang Dũng là nhắc đến một nhà thơ đa tài với hồn thơ đôn hậu, phóng khoáng. Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tham gia vào cuộc kháng chiến ngay độ tuổi đôi mươi. Quang Dũng viết “Nhớ Tây Tiến” rồi bỏ chữ “Nhớ” đi chỉ còn lại Tây Tiến. Đành rằng cả bài thơ là một nỗi nhớ lớn về Tây Tiến. Thật ra, khi bỏ chữ “Nhớ” đi là một nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Mặt khác, không chỉ có nỗi nhớ, mà ở đấy còn có sự ngợi ca, sự tôn vinh và vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam. Có thêm “Nhớ” hóa ra lại thu hẹp mạch cảm xúc của bài thơ.
2. Giới thiệu về đoàn binh Tây tiến:
Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào). Họ phải sống trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Điều đó đã thúc đẩy ở Quang Dũng một nỗi nhớ chiến khu, đồng đội đến cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh, ông đã viết bài thơ Tây Tiến.
Người lính trong “Tây Tiến” phần lớn là thanh niên, học sinh vừa rời ghế nhà trường “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”. Vì thế, họ đều có tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, say mê sự hào hùng của lí tưởng mình đang theo đuổi. Chính nguồn gốc xuất thân ấy đã tạo nên nét lãng mạn, vẻ đẹp hào hoa, kiêu hùng của người lính trong “Tây Tiến”. Quang Dũng cũng là thanh niên sinh viên mặc áo lính nên có thể nói bài thơ ra đời từ sự mộng mơ của người cầm bút. Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa đong đưa với khói lên, sương lấp, mưa xa khơi…
3. “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
- “không mọc tóc”: Chiến sĩ Tây Tiến phải hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc, khiến họ chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều.
- Liên hệ với thơ Chính Hữu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
- Họ không ở tư thế bị động mà lại hoàn toàn chủ động bởi cụm từ “không mọc tóc” khiến cho họ luôn trong tâm thế sẵn sàng cạo trọc đầu để thuận tiện đánh giặc chứ không phải bị rụng tóc.
- “Quân xanh màu lá”: căn bệnh quái ác khiến đoàn binh trở nên xanh xao. Hay chăng đó là nghệ thuật ẩn dụ nói đến xanh màu áo, xanh màu lá ngụy trang?
- “dữ oai hùm”: luôn giữ khí thế hừng hực, dù ốm nhưng không hề yếu.
→ Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà mà chấp nhận cái hiện thực để biến nó thành dáng dấp hiên ngang của người chiến sĩ.