Vào thuở hoa niên, Huy Cận khi xưa hay thường đạp xe lên vùng Chèm, Vẽ... Nhìn cảnh sông nước mênh mông, Huy Cận chạnh nghĩ đến nỗi sầu nhân thế. Vậy là từ một dòng sông cụ thể, thi nhân đã dựng lên một dòng sông tâm trạng. Đó cũng là một dòng buồn man mác chảy từ ngàn xưa đến mai sau... Giọng thơ chủ đạo của thi phẩm là giọng buồn lặng. Nỗi buồn ấy tưởng như cựa mình rất khẽ, nhưng lại vây riết con người trong một biển sầu rộng lớn.
Nếu phương tiện di chuyển chính của người châu Âu xa xưa là ngựa thì ở nước ta phương tiện di chuyển chính là thuyền. Đây là chỗ khác nhau giữa hai nền văn minh, một nền văn minh không có nước và một nền văn minh dựa vào sông nước.
Nước là một trong năm thứ thiết thân với đời sống của con người (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ mặc dù nước thực ra chỉ là một khối chất lỏng. Nhưng chính sự hội tụ của nước làm nên suối, sông, đầm, hồ và biển cả. Con người dựa vào sông nước để tồn tại, quần tụ, nhỏ thì thành làng xóm, lớn là quốc gia, thế giới. Sông nước, con người vì thế, như gắn bó cùng một bọc, nước vì thế vừa là chỗ để đi tới vừa là chỗ để trở về. Từ đó, nước hay sông nước trở thành đối tượng để con người khám phá ra chính mình, khám phá ra hiện hữu người trong cõi thế. Quan hệ giữa sông nước với con người đến một mức độ nào đó thì tạo nên cả một nền văn minh dựa trên sông nước. Tức là dựa vào sông nước mà tạo nên nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, tiếng nói rồi hướng tới sông nước mà sáng tạo thơ ca, tiểu thuyết, suy niệm triết học.
Một cách tự nhiên, sông nước trở thành đối tác để làm ăn sinh sống mà cũng lại là đối tượng của thẩm mĩ hay suy ngẫm triết học để con người gửi gắm những vui buồn của thân phận người hoặc triết lí về vị thế tồn tại của con người trong cõi vô thường.
Tràng giang là một trong số không nhiều thi phẩm tuyệt tác của phong trào Thơ mới. Trong tư cách là một bài thơ mới, Tràng giang có nhiều cách tân, tìm tòi mới mẻ. Chẳng hạn, một phong thái diễn đạt cảm xúc mới, một điệu hồn sâu lắng, rợn ngợp cô đơn của cái Tôi hiện đại, những cách tân trong nhịp thơ để tăng chất nhạc và những lựa chọn táo bạo về hình ảnh, ngôn ngữ gây ấn tượng sâu sắc.
Tuy nhiên, Tràng giang còn là một thi phẩm được viết trên tinh thần không khước từ với truyền thống. Trái lại, tác giả vận dụng được nhiều nét tinh hoa của văn chương trung đại và tạo cho bài thơ một vẻ đẹp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại phù hợp với phong cách thơ giàu suy tưởng của chính mình.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của một cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới. Có thể coi nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ “Tràng giang” là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất: màu sắc cổ điển và chất hiện đại.
Màu sắc cổ điển đậm đà, in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ mới. Sự cổ điển xuất hiện ngay từ nhan đề “Tràng giang” bằng chữ Hán. “Tràng” (một âm đọc khác của “trường”) gợi sự cổ kính. “Giang” là tên chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ này gợi một không gian cổ kính, trang trọng, bát ngát như trong Đường thi, gợi nhớ câu thơ nổi tiếng của Lí Bạch: “Duy kiến trường giang thiên tế lưu”.
Ngay từ nhan đề của thi phẩm, người đọc đã thấy được sự tinh tế trong cảm quan không gian của Huy Cận. Hai âm ang có độ vang - mở được đặt cạnh nhau đã gợi lên hình ảnh một tràng giang rộng dài vô tận. Bước vào Tràng giang là bước vào một không gian đầy sóng nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ phảng phất phong vị Đường thi. Sóng gợn nhưng cũng là những dòng buồn gợn mãi trong cõi lòng Huy Cận. Hai chữ “điệp điệp” ở cuối câu vừa diễn tả được cường độ và trường độ của sóng - buồn. Trên dòng tràng giang bao la ấy, xuất hiện một cánh buồm nhỏ nhoi, thụ động. Trong thơ xưa, thuyền - nước thường gắn bó, liền kề. Trong thơ lãng mạn, nó bị tách chia, gợi niềm ly biệt. Thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thế: các sự vật, hiện tượng tồn tại một cách hững hờ bên nhau. Nó thiếu sự giao hoà, gần gũi. Củi một cành khô lạc mấy dòng là một câu thơ được gia công nghệ thuật nhiều lần. Đây là một câu thơ có cấu trúc cú pháp hiện đại, một ẩn dụ có sức biểu đạt lớn. Huy Cận đâu có “miêu tả hiện thực” về một cành củi phiêu dạt, nổi trôi. Ông đang nói đến sự nổi nênh, cô đơn của một thế hệ, một lớp người trong đó có thi nhân. Tràng giang không phải là một bài thơ tả cảnh thông thường. Đó là một kiệt tác nói về nỗi cô đơn, nhỏ bé của kiếp người trong vũ trụ.