Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất(111 TCN-220): Âu Lạc bị xâm lược nhưng di sản văn hóa đồ đồng của thời Văn Lang-Âu Lạc-những chiếc trống đồng Đông Sơn-như bộ lịch sử đầu tiên của dân tộc được đúc bằng đồng- đã khảng định nền văn minh thời Hùng Vương có sức sống mãnh liệt, đủ sức tồn tại trước sự đồng hóa tàn bạo của ngoại bang. Sức sống văn hóa ấy là nguồn sức mạnh làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn đầu tiên của Hai Bà Trưng( năm 40 đến 43) đánh đuổi thái thú phương bắc phải chạy về Quảng Đông.
Bắc thuộc lần thứ hai (từ năm 43 đến năm 543): Phong kiến Đông Hán đô hộ nhưng không áp dụng được bộ luật lệ của phương bắc và phải đối phó với nhiều cuộc khởi nghĩa. Năm 190-193 những cuộc khởi nghĩa đã tạo ra nước Lâm Ấp và Chiêm Thành. Năm 248 lại nổ ra khởi nghĩa của Bà Triệu chống lại nhà Ngô. Năm 544 Lý Bí khởi nghĩa xưng vương Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân. Năm 557 Triệu Quang Phục xưng hiệu Triệu Việt Vương…nhưng đến năm 602 nước Vạn Xuân lại mất nền độc lập.
Bắc thuộc lần thứ ba(từ 605 đến 938): nhà Tùy và nhà Đường đô hộ Lạc Việt. Năm 722 Mai Thúc Loan khởi nghĩa, năm 766 Phùng Hưng nổi dậy, năm 938 Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng-giành độc lập-xưng vương và đóng đô ở Hoa Lư-kết thúc ngàn năm bắc thuộc.
Nhìn lại cả quá trình hơn ngàn năm ấy có thể nhận thấy về số lượng, quy mô và sức mạnh của các cuộc khởi nghĩa phát triển theo chiều hướng tăng dần- mặc dù các thế lực ngoại xâm cũng ngày càng lớn mạnh và thâm độc hơn. Để lý giải chiều hướng này có lẽ không thể tìm ra nhân tố nào lớn hơn và thuyết phục hơn là: sức sống của văn hóa thời Hùng Vương như dòng chảy không ngừng suốt chiều dài lịch sử ngàn năm bắc thuộc. Nền văn hóa ấy được nhận biết từ những di chỉ khảo cổ thời đồ đồng ở Đông Sơn-là trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn và nhiều di vật bằng đồng khác.