4, Ngay từ khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.
- Về chính trị, ông cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải
họ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.
Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.
Hồ Quý Ly đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.
-Về kinh tế tài chính, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng, ban hành chính sách hạn điền, quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.
- Về xã hội, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.
Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.
- về văn hoá, giáo dục, Hồ Quý Ly bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục, cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ. Ông cũng sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.
- Về quân sự, để đề phòng giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly đã thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.
2, Thái ấp: Thái ấp là ruộng đất do nhà
vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công.
Quy mô khoảng 1, 2 xã. Quý tộc có quyền sử dụng
và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần cư dân
trên đó, như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các
độ quân vương hầu gia đồng.
Điền trang:
Là những trang trại lớn củaquý tộc thời
Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý,sử
dụng sức lao động của gia nô, nô tỳ,
có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng
đất thuộc sở hữu phong kiến .
Ở thời Trần điền trang là ruộng đất
của các vương hầu, công chúa,
phò mã,cung tần chiêu tập dân phiêu
tán không có sản nghiệp để khai
khẩn ruộng hoang thành lập điền
trang Chế độ điền trang hàm
chứa những yếu tố cát cứ.
1, trong cả ba lần quân Nguyên Mông tấn công Đại Việt, Trần Hưng Đạo đều được vua Trần cử làm tướng ra trận. Đặc biệt trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.