“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? - một tên tuổi mãi in đậm trong lòng đọc giả với cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường qua tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” trích tập “Thơ Điên”. Đây chính là sản phẩm được kết tinh từ nguồn thơ lạ lùng kia – không những là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả mà còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai chở bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”
Trong cảm thụ nghệ thuật, mọi việc khác không thể thay thế việc dùng trực cảm thâm nhập vào bản thân tác phẩm. Nhất là những tuyệt tác, bao giờ cũng có "mạng vi mạch" nối với tinh hoa tinh huyết của hồn thơ ấy. Qua tiêu đề "Đây thôn Vĩ dạ" có thể thấy tương quan không gian như thể ở hai nơi chốn: thôn Vĩ (Ngoài kia) và ở đây (Trong này) hiện ra như một người đang ở đây, ở trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng về "thôn Vĩ", về ngoài kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang phải lìa bỏ cuộc đời, đang chới với tuyệt vọng bên vùng trời quên lãng. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc– người con gái của thôn Vĩ xứ Huế mà tác giả thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa. Nhưng đó chỉ là cái cớ hay cái men xúc tác để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của 1 dáng Huế yêu kiều – nơi khắc chạm dấu ấn khó quên về một người con gái và cũng là nơi để lại mối tình đơn phương trong lòng tác giả.
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Một câu hỏi tu từ nhiều sắc thái được buông ra mà không lời đáp: vừa hỏi, vừa nhắc nhớ, vừa trách, vừa mời mọc. Thực ra, đó chỉ là hình thức bày tỏ mà không đợi trả lời để thành đối thoại. Nó cứ thế buông ra để thành dòng độc thoại bộc bạch tâm tình. Bên cạnh đó, cách thức dùng từ “chơi” càng gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi. Trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử với “cái tôi” li hợp, bất định tự phân thân để hỏi mà như nhắc đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà chẳng biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không.
Qua lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt như một lời mời đó đã gợi lên hình tượng mảnh vườn thôn Vĩ trong mộng tưởng:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Nhắc đến Vĩ Dạ thôn, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ chính là lúc hừng đông nơi xứ Huế huyền ảo qua thủ pháp điệp từ “nắng” đã tỏa ra sự sống đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm.. Được biết, cau là loại cây cao nên đón những tia nắng đầu tiên của ngày mới. Đặc biệt là sau một đêm đắm mình dưới làn sương, những tán cau càng ánh lên một sắc xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời xứ Huế. Nhờ vậy, không gian thôn Vĩ cứ thế thêm phần thoáng đãng, khoáng đạt, và không gian lại càng được đẩy lên cao trong cái “nắng mới lên” đầy thanh tân, tinh khiết.
Song, trọng tâm của hình tượng vườn dường như thuộc về những nét vẽ ở hai câu sau.. Vì nó có sắc "mướt" chăng? Vì được sánh với "ngọc" chăng? Quả là hai chữ ấy đã va phải vào trực cảm người đọc khi "mướt" ánh lên vẻ mượt mà óng ả đầy xuân sắc, còn "ngọc" là tinh thể trong suốt vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh nữa.. Tuy nhiên, ta mới chỉ thấy tầng lộ thiên của chữ "ngọc" khi mà ẩn bên dưới vẫn còn cả tầng trầm tích. Đó là mong muốn của thi sĩ về sự tuyệt đối hoá, tột cùng hoá vẻ đẹp đẽ, quí giá của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm thiết tha với cuộc đời trần thế dâng trào đến mức đau đớn. Càng đẹp lại càng đau. Cho nên, trong so sánh với "ngọc" luôn thấy chất chồng một cách oái oăm cả hai tâm thái: cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng đau thương vì vườn ai lộng lẫy đến thế, ngay trước mắt thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau thương!
Trong hoài niệm của nhà thơ, Vĩ Dạ đã đẹp bởi sự trù phú, đã nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Giờ đây vẻ đẹp ấy càng trở nên sinh động, hấp dẫn hơn khi có sự xuất hiện của con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo, tao nhã
“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền"
Chỉ bằng nét vẽ cách điệu tài hoa, nửa thực nửa hư, thi sĩ đã gợi tả vẻ đẹp hài hòa giữa cảnh vật thiên nhiên và con người: Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu.
Đặc biệt có nhiều tranh luận ở “mặt chữ điền” vì gương mặt kia biểu trưng cho người quân tử hay là bóng hồng? Là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Phải chăng đó là hình bóng tự họa của Hàn Mặc Tử khi ông đang thả hồn mình về xứ Huế, không dám lại gần chỉ có thể đứng khuất sau lá trúc vì mặc cảm bản thân? Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra không chỉ là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân phận mình.