Ban đầu, anh bỏ hẳn tiền túi ra mua một chập bốn bát bánh đúc cho người đàn bà khốn khổ kia. Rồi từ một câu nói tầm phơ tầm phào: “này đùa chứ có về ở với tớ một nhà cho vui”, ấy vậy mà thị đồng ý thật. Anh cũng đã thấy “chợn” bởi anh lo sợ cho tương lai, đến bản thân mình còn không nuôi nổi mình huống chi “đèo bồng” người khác? Tôi nghĩ, nếu lúc này gã đàn ông kia bỏ mặc người “vợ nhặt” thì cũng là dễ hiểu. Nhưng rồi anh đã “Chậc, kệ!”, cái tặc lưỡi ấy nghe có vẻ bất cần, vô tâm và nguội lạnh quá. Nhưng thực chất đằng sau cái vẻ bỗ bã, tạm bợ ấy là một khát khao hạnh phúc vô bờ. Đến nỗi, dẫu cho có biết bao đôi mắt đang nhìn chằm chằm vào đôi tình nhân mới “cưới”, họ rì rầm, bàn tán, chê bai: “chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?”. Nhưng Tràng vẫn mặc kệ, giờ đây với anh chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”. Đây mới là niềm hạnh phúc Tràng hằng ao ước bấy lâu. Bởi thế, khi đã có trong tay, anh sẵn sàng bỏ ngoài tai tất cả. Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc niềm xúc cảm sâu xa khi khiến cho niềm khao khát hạnh phúc trào dâng mạnh mẽ hơn tất cả những khó khăn chồng chất mà Tràng phải gánh chịu. Sự đói khát đã không làm giảm đi giá trị tình người mà ngược lại, được hạnh phúc, được yêu thương mới quý giá hơn hết thảy, ngay cả khi người ta tưởng chừng như cuộc sống không còn gì ngoài bát cơm manh áo.
Cuộc hôn nhân nảy nở từ một trò đùa nhưng bên trong thực chất là một cái mầm nghiêm túc xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Trên đường về, còn bao nhiêu tiền Tràng dồn hết vào ba việc: đãi người vợ một bữa cơm, mua cho vợ cái thúng đựng mấy đồ lặt vặt và mua lấy ba hào dầu. Hai hành động đầu tiên nghe có vẻ thiết thực. Nhưng hành động thứ ba xem chừng xa xỉ, bởi lẽ không có đèn dầu, cuộc sống vẫn tốt, Hơn nữa, giữa cái thời buổi chết dần chết mòn vì đói ấy ai lại thèm để tâm đến chút ánh sáng nhỏ nhoi? Nhưng Tràng thì không thế, dẫu cho có “nhặt” được vợ giữa đường giữa chợ như nhặt một cái rơm, cái rác nhưng không vì thế mà anh khinh thường người đàn bà đi kế bên. “Vợ mới vợ miếc thì cũng phải sớm sủa cái chứ chẳng nhẽ như tối mà đã rúc ngay vào?”. Ngọn đèn dầu chính là minh chứng cho trái tim nhân hậu, tấm lòng trân trọng của Tràng đối với một người đàn bà nghèo khổ. Ngọn đèn đã thắp lên tương lai tình yêu, hạnh phúc cho cặp vợ chồng son.
Về đến nhà, “Tràng xăm xăm bước vào trong nhà… Hắn quay lại nhìn thị cười cười”. Rõ là Tràng đã thay đổi thật. Động thái “xăm xăm” là câu trả lời chính xác cho một người đàn ông đang bắt đầu tư thế làm chủ gia đình, làm chủ cuộc sống mới của mình. Tràng cũng tỏ ra rất thân thiện với thị khi “cười cười” và thú nhận với thị những câu rất thành thật nhưng cũng đầy hàm ý: “Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!”. Như vậy, Kim Lân đã xóa đi trong suy nghĩ của người đọc về một người đàn ông ngờ nghệch, chỉ còn lại trong cảm thức người đọc một anh Tràng nhanh nhẹn và rất biết cách bày tỏ cảm xúc qua một vài từ láy có khả năng biểu đạt cao. Thế nhưng, dường như hạnh phúc đến quá bất ngờ khiến Tràng vẫn còn bối rối. Anh “ngượng nghịu”, “đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ…, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân…”. Một loạt từ láy “ngượng nghịu” “tây ngây”, “sờ sợ”, “lấm lét” đã diễn tả thật chính xác tâm trạng của Tràng lúc đó. Người đọc hình dung ra hình ảnh một người đàn ông lóng ngóng, vụng về đầy lo lắng. Cứ tưởng anh chàng lúc nào cũng lầm lì và bặm trợn, ai ngờ cũng có lúc trông thật đáng yêu. Rồi khi nhìn thấy người đàn bà có vẻ buồn ra mặt, Tràng “nhổ vu vơ một bãi nước bọt”, lại “tủm tỉm cười một mình” và “ngờ ngợ như không phải thế”. Kim Lân quả là có biệt tài khi luôn đặt các từ láy đúng chỗ để những từ ấy không chỉ vẽ ra cụ thể hơn chân dung nhân vật mà còn có ý nghĩa kết nối diễn biến tâm trạng của các nhân vật. Những từ “vu vơ”, “tủm tỉm”, “ngờ ngợ” đã cho ta thắc mắc vì sao Tràng lại có tâm trạng như thế? Phải chăng vì anh sợ đối diện với người vợ mới, sợ thị đổi ý bởi hoàn cảnh thật của mình đâu phải “rich bố cu” như lời anh khoe ngoài chợ?
Đột nhiên có “tiếng người hung hắng ho” chặn dòng suy nghĩ ngổn ngang của anh lại, thì ra đó là mẹ Tràng về. Kim Lân đã miêu tả nỗi vui mừng như đứa trẻ của Tràng khi nghe tiếng bà cụ Tứ gọi với vào trong nhà sau những bồn chồn mong ngóng để được “khoe vợ” của hắn: “Hắn lật đật chạy ra đón”. Từ “lật đật” sao mà đúng với tâm trạng của Tràng lúc này đến thế! Tràng trịnh trọng mời mẹ vào nhà thưa chuyện, rồi sốt ruột, căng thẳng chờ đợi câu trả lời của bà cụ Tứ. Để rồi khi bà mẹ tỏ ý “mừng lòng”, Tràng mới “thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân”. Đến đây, có thể thấy cuộc hôn nhân này đối với Tràng mà nói không còn là một câu bông đùa sáo rỗng, nó đã thực sự là cánh cửa mới trong cuộc đời của anh, là những hồi hộp, rung động phút ban đầu của một người thật sự muốn vun vén một hạnh phúc gia đình.