Mới đọc vào câu thơ ta dường như thắc mắc rằng làm sao có thể thức trong mơ nhưng rồi sẽ nhận ra đó là một điều hết sức dễ hiểu. Cái “thức” trong những giấc mơ nói lên sự thật trong lòng của một tình yêu say đắm khi nỗi nhớ người yêu luôn dâng trào, cồn cào và thường trực trong trái tim người con gái. Nỗi nhớ ấy cứ da diết, khắc khoải, cứ trằn trọc không yên. Đó là “một nỗi nhớ vượt qua mọi giới hạn khách quan, vượt qua mọi giới hạn của sự sống và tiềm thức”.
Nỗi nhớ ấy khi gắn với thời gian thì nó không có ngày và đêm, và với không gian, nó cũng không có nhiều phương hướng:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.”
Một lần nữa Xuân Quỳnh lại diễn tả tình yêu của mình bằng nỗi nhớ thủy chung son sắt. Chỉ khác là ở đoạn thơ trên thi sĩ sử dụng từ “nhớ” còn ở đây lại dùng từ “nghĩ”. Đây là hai động từ thuộc về tình cảm ý thức, chúng có sự giao thoa với nhau theo chiều hướng sâu sắc hơn về nhận thức, suy tư, trăn trở trong tình yêu. Cấu trúc điệp “dẫu … về phương …” nhấn mạnh hoàn cảnh đổi thay với những trở lực mà em vẫn vượt qua, chiến thắng nó chỉ để hướng về anh. Thoạt nghe tưởng như nhà thơ nhầm lẫn, bởi dân gian thường nói “xuôi nam ngược bắc”. Ở đây, nữ sĩ lại sử dụng đối lập “xuôi bắc ngược nam” để khẳng định một chân lí vĩnh cửu: dù đất trời, cuộc sống quay cuồng đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của người phụ nữ vẫn vẹn tròn, thủy chung dành cho người mình thương.
Không gian có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng tình yêu thì chỉ có một phương và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh là em luôn nghĩ đến và hướng về. Giống như sóng biển phải hướng tới bờ, dù thời gian có chia xa, không gian có cách trở, tình yêu chân thành nhất định sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Dù ở vị trí nào con sóng cũng sẽ về với bờ, dù ở nơi nào em cũng về với anh. Qua đó, Xuân Quỳnh nêu bật tính cách của người phụ nữ trong tình yêu: luôn thủy chung, nồng nhiệt, chân thành.
Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không tránh khỏi những bể dâu của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão với niềm tin sẽ tới đích hạnh phúc:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã tiếp thêm cho em sức mạnh. Khổ thơ thiên về tình yêu lí tưởng, tình yêu trong mơ, bởi thực tế không phải mọi người yêu nhau đều có thể đến được với nhau. Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc. Như vậy, Xuân Quỳnh đã viết lên niềm tin tuyệt đối, một thái độ lạc quan vô bờ với tình yêu, chứng tỏ bà rất trân trọng, đề cao nó.
Có thể thấy hai dòng thơ cuối của khổ có có cấu trúc đảo độc đáo khi chúng có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không xao nhãng nội dung – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi, tựa như sóng kia vẫn ngày đêm hôn nhẹ vào bãi cát dài dẫu có bao nhiêu lần sóng bị đẩy ra xa.