“Đức hạnh” là phẩm chất đạo đức, trí tuệ, tình cảm, tâm hồn của con người. Một người có đức hạnh là người hội đủ nhiều phẩm chất cao quý của con người và thời đại.
Con người “đức hạnh” được xem là khuôn mẫu của mọi thời đại. Người đó là biểu tượng cao đẹp cho lối sống tích cực, cho nhân phẩm trác tuyệt của nhân loại. Thế nhưng, đức hạnh không phải là lời nói suông, là lời ngợi ca trừu tượng. Đức hạnh chỉ là đức hạnh khi nó được thể hiện thông qua hành động. Không hành động, đức hạnh không có cơ hội lộ diện và phát huy sức mạnh. Do vậy, ý kiến “mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” là hoàn toàn đúng đắn.
Trong mối quan hệ với hành động, đức hạnh là cội nguồn tạo ra hành động. Ngược lại, hành động là biểu hiện cụ thể của đức hạnh. Chẳng hạn như, khi nhặt được của rơi, một con người đức hạnh thực sự là phải hành động theo cách trả lại của rơi đó. Nếu không hành động “trả lại” thì người đó không được là đức hạnh.
Như thế, hành động chính là thước đo phẩm giá đạo đức của con người. Trong cuộc đời có rất nhiều người nói rất hay về đức hạnh và thậm chí có cả những người tự nhận mình là người đức hạnh, nhưng thực tế nhiều khi không phải. Muốn biết người ta có đức hạnh hay không thì chúng ta phải kiểm chứng họ bằng hành động cụ thể.
Để hành động, con người ta cần biết vì sao mình hành động. Thế nhưng, cách thức hành động và mục đích hành động của con người đều do đức hạnh chi phối. Chẳng hạn, một cụ già hoặc một em bé bị ngã, ta giúp nâng dậy bởi “đức hạnh” bảo ta rằng đó là những con người yếu đuối cần giúp đỡ. Hành động trợ giúp ấy là hành động tốt, đáng làm. Hay khi nhìn thấy một tên cướp đang cướp tài sản của một ai đó, chúng ta cần phải hành động (như tấn công bắt giữ tên cướp, gọi điện báo cho công an,...) vì hành vi cướp bóc là trái đạo lí, vi phạm pháp luật.
Đức hạnh bẩm sinh vốn có trong con người. Nhưng nếu không có ý thức duy trì, tu dưỡng thì đức hạnh sẽ sớm bị mai một, cái xấu, cái ác sẽ có cơ hội xâm lấn. Con người có thể vun đắp đúc hạnh bằng cách noi theo những gương tốt của ông bà tiên tổ qua sách báo (chẳng hạn truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, truyền thống nhân ái,...), học đức hạnh trong đời sống thường nhật, trong quan hệ ứng xử văn hoá với bạn bè. Tri thức con người càng phát triển thì đạo đức của con người cũng cần phát triển tương ứng. Đức hạnh đòi hỏi sự cân đối về mọi mặt trong đời sống tâm hồn. Nếu phát triển lệch lạc thì những tri thức, những thành tựu khoa học tự nhiên có được có thể trở thành mối hiểm nguy để doạ chính sự sống của con người. Việc tìm ra nguyên tử chẳng hạn là để phục vụ đời sống con người, nhưng những kẻ xấu lại chế bom nguyên tử để hủy diệt sự sống. Hành động đó, những con người đức hạnh cần phải tránh xa,
Mọi biểu hiện của đức hạnh đều được thông qua con đường hành động. Chỉ có hành động mới mang lại giá trị đích thực cho con người. Nói cách khác, thước đo đức hạnh của con người là hành động. Do vậy, việc tu dưỡng bản thân cần phải có sự điều chỉnh phù hợp giữa trau dồi đức hạnh và hành động. Học phải đi đôi với hành. Lí thuyết phải kết hợp với thực tiễn.
Đức hạnh của con người chỉ trở thành đức hạnh thực sự khi được kiểm chứng qua hành động. Trên ghế nhà trường, học sinh được truyền dạy những kinh nghiệm sống từ ngàn đời của cha ông, nhân loại. Mục đích của việc giáo dục là đào tạo ra những con người hội đủ mọi mặt của đức hạnh. Nhưng quan trọng hơn là khi ra đời, học sinh phải biết hành động đúng với lương tri, đạo đức,... Đấy chính là điều quan trọng.
Khi đang còn trên ghế nhà trường, việc trau dồi, nắm bắt tri thức, chăm chú nghe lời giảng của thầy cô,... là những biểu hiện của đức hạnh. Ngược lại, không thuộc bài, trốn học đi chơi, đua đòi ăn diện,... là những biểu hiện trái với đức hạnh, cần loại bỏ.
Nhấn mạnh đến vai trò của hành động, nhà triết học La Mã cổ đại không hề có ý phủ nhận nền tảng của hành động là đức hạnh. Đức hạnh cần được phải trau dồi bền bỉ qua thời gian. Mỗi chặng đường của nó đều được kiểm định trong hành động. Hành động là con đường đi đến mọi kết quả cuối cùng của đức hạnh, của lẽ sống con người.