+ Thời Lý: Năm 1070, Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức tại kinh thành. Năm 1076, xây dựng Quốc tử giám.
+ Thời Trần: các khoa thi được tổ chức đều đặn hơn. Năm 1396, các kì thi được hoàn chỉnh. Mở rộng Quốc tử giám cho con em quí tộc và quan chức đến học.
+ Thời Hồ (1400 – 1407) chưa có chính sách cụ thể đối với giáo dục.
+ Thời Lê sơ: cho xây dựng lại Văn Miếu, mở rộng Thái học viện. Trong 38 năm dưới thời vua Lê Thánh Tông, nhà nước đã mở 12 khoa thi Hội, lấy đỗ 501 tiến sĩ, trong đó có 9 trạng nguyên. Đây được coi là thời kì phát triển nhất của giáo dục thi cử phong kiến.
-Về hình thức tuyển chọn, nội dung và tư tưởng giáo dục:
+ Hình thức tuyển dụng chủ yếu bằng nhiệm cử, tiến cử và khoa cử.
+ Tư tưởng “giáo dục là đường thẳng của quan trường” đã chi phối giáo dục khoa cử, đặc biệt là thời Lê sơ phát triển mạnh, là cơ sở chính để tuyển lựa những người tài giúp nước.
+ Nội dung giáo dục chủ yếu là Nho giáo qua các sách Ngũ kinh, Tứ thư, thơ phú,…
+ Thi cử được tổ chức ngày càng chặt chẽ, số người đi học tăng, dân trí được nâng cao.
+ Thời Lê sơ, qui định 3 năm 1 lần thi Hội, đỗ được phong tiến sĩ. Năm 1484 dựng bia tiến sĩ, có 82 bia tiến sĩ ở Văn Miếu khắc tên 1323 tiến sĩ.
– Nguyên nhân của sự phát triển trên:
+ Những chính sách khuyến khích sự phát triển giáo dục của nhà nước (lập Văn Miếu, mở trường học ở kinh đô và các địa phương, tồ chức thi cử để chọn nhân tài,..)
+ Giáo dục phát triển ngày càng hoàn thiện, giáo dục nhân dân cũng phát triển mạnh, chịu ảnh hưởng của Phật giáo, đạo Nho,…
+ Có những người thầy giáo giỏi, đức độ như Chu Văn An dưới đòi Trần. xuất hiện nhiều nhà nho, nhà chính trị, ngoại giao, nhà sử học nổi tiếng như: Lê Văn Hưu, Nguyễn Hiền, Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh,…)