Tổ chức biên chế
Cách thức tổ chức và phiên chế các lực lượng có ý nghĩa quan trọng đối với sức mạnh của quân đội. Hiểu rõ điều đó, nhà Trần thường xuyên kiện toàn cơ cấu tổ chức quân đội, quan tâm xây dựng quân thường trực chính quy hợp lý, gọn nhẹ, có sức cơ động cao; theo đó, phân định rõ quân triều đình và quân các lộ, phủ (tức quân trung ương và quân địa phương). Ở trung ương có Cấm quân bảo vệ vua, triều đình và kinh đô; Sương quân canh giữ các cửa thành và là lực lượng cơ động. Ở địa phương có quân các lộ, phủ canh giữ và bảo vệ sự bình yên trên địa bàn. Bên cạnh đó, triều đình còn cho phép các vương hầu tự tổ chức quân đội riêng ở nơi mình trấn trị. Khi xảy ra chiến tranh, tất cả các lực lượng đều chịu sự điều động và chỉ huy thống nhất của triều đình. Qua sử sách, chúng ta dễ dàng nhận thấy, thời kỳ nhà Trần đã xuất hiện lục quân và thủy quân. Trong lục quân, có cả bộ binh, kỵ binh và tượng binh. Trong đó, bộ binh được coi là loại binh chủ yếu vì thích hợp với điều kiện tự nhiên của nước ta, phát huy được vai trò quan trọng trong giáp chiến, phục kích, tập kích và tạo thời, lập thế, phối thuộc chiến đấu hiệp đồng có hiệu quả với những đội kỵ binh và tượng binh. Voi chiến đã từng tham gia các trận Bình Lệ Nguyên, Nội Bàng, Vạn Kiếp,… làm cho quân Nguyên - Mông hoảng loạn mỗi khi giáp chiến. Lực lượng kỵ binh thường sử dụng trong chiến đấu hiệp đồng hoặc khi truy kích địch. Nhà trần vốn xuất thân từ vùng sông nước, lại chú trọng tuyển chọn những người dân chài lưới, giỏi bơi lặn vào thủy quân; đồng thời, cho đóng nhiều chiến thuyền hiện đại, như: thuyền Châu Kiều, thuyền Đinh Sắt hay Cổ lâu thuyền với hàng trăm tay chèo, có đầy đủ trang, thiết bị đủ khả năng vượt biển xa. Do vậy, thủy binh Đại Việt được xếp vào loại quân tinh nhuệ lúc bấy giờ.