Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc trên nhiều loại hình văn học, xuất sắc cả trong sáng tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm.Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai (抑齋), quê ở thôn Chi Ngại, phường Cộng Hoà, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội.
Những tác phẩm chính bằng chữ Hán:
- Quân trung từ mệnh tập gồm khoảng trên dưới 70 bài văn từ lệnh viết trong thời gian kháng chiến, phần lớn là thư từ giao thiệp với các tướng Minh. Ngoài ra còn biểu, tấu cầu phong gửi vua Minh, văn tấu cáo các vua Trần, lệnh dụ các tướng hiệu quân nhân, chiếu khuyến dụ hào kiệt v..v..
- Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi phụng chỉ Lê Lợi soạn thảo, công bố ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi ( đầu năm 1428), sau khi cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi.
- Ức Trai thi tập hiện còn 105 bài thơ chữ Hán viết theo thể thơ luật Đường ngũ ngôn và thất ngôn.
- Văn chữ Hán: Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục ( Chuyện cũ về tướng công Băng Hồ, tức Trần Nguyên Đán ), Nguyễn Phi Khanh truyện, Văn bia Vĩnh Lăng (Văn bia Lê Thái Tổ), Lam Sơn thực lục, Văn loại...
Những tác phẩm bằng chữ Nôm:
- Quốc âm thi tập hiện còn 254 bài chia làm bốn môn loại: Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn. Phần Vô đềchia thành nhiều mục: Thủ vĩ ngâm (1 bài), Ngôn chí (21 bài), Mạn thuật (14 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Tự thuật (11bài), Tức sự (4 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài) v.v...
Ngoài sáng tác văn học, nhiều người cho rằng Nguyễn Trãi còn để lại cuốn Dư địa chí. Sách viết khoảng năm 1435, phỏng theo lối văn của thiên Vũ cống trong Kinh thư nên Dư địa chí còn được gọi là Đại Nam Vũ cống. Đây là bộ sách địa lí cổ nhất của nước ta hiện còn.
nguồn :https://voer.edu.vn/c/van-hoc-cua-nguyen-trai/806b00aa/d2583ce1