Câu lệnh :
Chỉ thị máy tính (instruction) là đơn vị nhỏ nhất dùng để điều khiển máy tính, cụ thể hơn là ra lệnh cho CPU thực hiện một thao tác căn bản. Vì mức độ phức tạp của việc điều khiển máy tính nên người ta ghép một số tổ hợp của các chỉ thị để cho máy thi hành được một thao tác lớn hơn và có ý nghĩa hơn gọi là câu lệnh. Như vậy, mỗi câu lệnh bao gồm một hay một số chỉ thị máy tính được sắp xếp theo trình tự xác định và nhằm mục đích ra lệnh cho CPU tiến hành một thao tác cố định có ý nghĩa.
Câu lệnh là đơn vị cơ bản của một ngôn ngữ lập trình. Tùy theo ngôn ngữ lập trình, các câu lệnh đều phải tuân theo các trật tự sắp xếp của các từ khóa, tham số, biến và các định danh khác như các macro, hàm, thủ tục cũng như các qui ước khác. Tập hợp trật tự và qui tắc đó tạo thành cú pháp (syntax) của ngôn ngữ lập trình. Các câu lệnh của một chương trình dùng để chỉ thị cho máy tính biết làm gì, xử lý như thế nào với các dữ liệu và từ đó tiến hành các phép tính toán hay biến đổi dữ liệu để đạt được kết quả.
Cấu trúc thông thường của các cú pháp câu lệnh là: Mỗi câu lệnh thường bắt đầu bằng kỳ tự hay một từ riêng chỉ tên của câu lệnh, kế tiếp là trật tự xác định của các tham số. Một số ngôn ngữ lập trình yêu cầu phải có kí tự kết thúc câu lệnh và thường là dấu chấm-phẩy (;). Mỗi câu lệnh cũng sẽ có một giá trị được gửi về sau khi thực thi. Các giá trị này có thể dùng cho nhiều mục đích khác nhau và để biết việc thực hiện câu lệnh có thành công hay không.
Thí dụ 1: câu lệnh đơn giản trong trong DOS và Windows: yêu cầu máy tính sao chép tập tin f1.txt thành 1 tập tin có tên f2.txt được viết là copy f1.txt f2.txt hay CoPy f1.txt f2.txt đều được vì DOS và Windows không phân biệt chữ viết hoa hay viết thường trong các câu lệnh nhưng tuyết đối không được sai chính tả và không được đảo lộn thứ tự vị trí của f1.txt và f2.txt.
Chương trình :
Chương trình hay còn gọi là phần mềm (software) là một tập hợp những câu lệnh được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trật tự xác định nhằm tự động thực hiện một số chức năng hoặc giải quyết một bài toán nào đó.
Tùy theo mức độ phức tạp của phần mềm làm ra, người thiết kế phần mềm sẽ ít nhiều dùng đến các phương tiện để tạo ra mẫu thiết kế theo ý muốn (chẳng hạn như là các sơ đồ khối, các lưu đồ, các thuật toán và các mã giả), sau đó mẫu này được mã hoá bằng các ngôn ngữ lập trình và được các trình biên dịch chuyển thành các tập tin thi hành. Tập họp các tập tin thi hành đó làm thành một phần mềm. Một phần mềm thông thường sẽ tương thích với một hay vài hệ điều hành, tùy theo cách thiết kế, cách viết mã nguồn và ngôn ngữ lập trình được dùng.
Việc thực hiện chương trình của máy tính có thể bị dừng lại khi người điều khiển thực hiện lệnh thoát hoặc dừng chương trình hay khi chương trình gặp lỗi (của bản thân chương trình, của hệ điều hành hay của phần cứng).