Nét nghệ thuật đặc sắc đầu tiên là Bài phú sông Bạch Đằng được làm theo lối cổ thể, điệu phú này thường có lối kết cấu đối đáp: chủ - khách, khiến cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn, sinh động. Nhân vật khách có thể là sự phân thân của chính tác giả và nhân vật tập thể là các bô lão địa phương sống ở ven sông Bạch Đằng mà nhân vật khách gặp trên đường vãn cảnh, nhưng đây cũng có thể hiểu nhân vật bô lão chỉ mang tính chất hư cấu, là tâm tư tình cảm của tác giả thể hiện thành nhân vật trữ tình. Do vậy, dưới hình thức đối thoại giữa khách và các bô lão địa phương, bài phú đã thể hiện cảm xúc say sưa, những chiêm nghiệm, suy nghĩ về đất nước, về dân tộc.
Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh dũng.
Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng mới về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động.
Ngoài ra cũng không thể không kể đến sự đóng góp của giọng điệu, tiết tấu đối với sự thành công tác phẩm. Bài phú sử dụng lối văn biền ngẫu với những câu văn dài ngắn, đan xen nhau vô cùng linh hoạt, điều này khiến cho bài văn trở nên giàu nhịp điệu, tiết tấu trở nên linh hoạt hơn. Trong phần mở đầu tác phẩm, nhịp điệu thơ nhanh, nhưng vẫn hết sức nhịp nhàng vừa diễn tả được cái hùng tâm tráng trí bốn phương của nhân vật khách khi đi ngao du sơn thủy bốn phương nhưng đồng thời cũng lại thấy được vẻ đẹp nên thơ của khung cảnh. Nhưng ngay đoạn sau đó giọng thơ trầm xuống, nhịp điệu chậm để đứng lặng giờ lâu trước khung cảnh: Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô/ Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu/ Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá/ Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. Với đoạn thuật lại chiến công của dân tộc lời thơ cô đọng, súc tích nhưng vẫn diễn tả đầy đủ không khí trận chiến sinh động: Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Ở đây lời văn không còn nhịp nhàng như đoạn thơ trên mà có sự đan xen những câu văn dài ngắn khác nhau, diễn tả được không khí hào hùng, căng thẳng của trận đấu, đồng thời thể hiện tâm trạng của tác giả. Đoạn văn kết bài giọng văn trở nên thâm trầm, sâu sắc nhận định về ba nguyên nhân làm nên chiến thắng của dân tộc: địa lợi - đất hiểm; Nhân hòa - nhân tài giữa cuộc điện an; thiên thời - được trời ủng hộ và nhấn mạnh vào yếu tố con người tạo nên sự thành công cho cuộc chiến.
Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Những tác phẩm của ông thường bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm như thế.