Tích cực:
Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng địa phương, từng vùng ở Việt Nam. Ví dụ như vùng đồng đồng bằng sông Cửu Long, vì thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nên đây là nơi cung cấp lương thực chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Quy mô sản xuất được mở rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Bình quân GDP của Việt Nam khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa sau thời kỳ đổi mới tăng qua các năm. Từ năm 1986 – 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7% và KV3 là 5,7%. Từ năm 1991 – 1995, GDP của KV1 là 4,1%, KV2 là 12%, KV3 là 8,6%. Từ năm 1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.
Sản xuất hàng hóa làm cho Việt Nam từ một đất nước kém phát triển trở thành một đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật chất càng ngày càng đầy đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện và ngày càng phong phú.
Tiêu cực
Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội
Vì chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và hủy diệt môi trường ,sinh thái( điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra ngoài môi trường làm ô nhiễm môi trường). Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế liệu không đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ môi trường. Đặc biệt phải kể đến đó là vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên một làn sóng phẫn nộ của người dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển đã làm cho hải sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề về tài sản và môi trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh, du lịch và đời sống cũng như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các “làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều.
Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức khỏe người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ việc làm sữa lậu, trà sữa làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa,… ngày càng nhiều.