Chào mừng bạn đến với Selfomy Hỏi Đáp, hãy Hỏi bài tập hoặc Tham gia ngay
0 phiếu
trong Ngữ văn lớp 7 bởi lehoanganh962004 Thần đồng (1.4k điểm)
đã sửa bởi selfomyhoidap ● Ban Quản Trị
Phát biểu cảm nghi~ của mình vê những câu hoặc bài ca dao than thân nói vê thân phận nghèo khổ trong xa hôi thời phong kiên
đã đóng

7 Trả lời

+1 thích
bởi lehoanganh962004 Thần đồng (1.4k điểm)
 
Hay nhất
Những câu hát than thân ngoài ý ngh a than thân trách phận còn có ý ngh a, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đ ng thời. iều đó đ ợc thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1. N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

2. Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe.

3. Thân em nh trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể th lục bát cổ truyền với âm h ởng ngậm ngùi, th ng cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ th ờng thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp ng ời nghèo khổ trong xã hội c (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu th ờng là những cụm từ nh Th ng thay… Thân em nh … và nội dung ý ngh a đ ợc thể hiện dới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1 : Trong ca dao xa, ng ời nông dân th ờng m ợn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét t ng đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nớc. Cò gần gi bên ng ời nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành ng ời bạn để ng ời nông dân chia sẻ tâm tình:

N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật t ng phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng th ng của con cò. Giữa trời nớc mênh mông, cò lủi thủi, đ n côi, lầm li kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. ã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đ ng đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao nh một tiếng thở dài não nề, nh một lời trách móc, oán than tr ớc nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dới để mò tép, mò tôm, ng ời nông dân ngậm ngùi liên t ởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nh ng nó vẫn không đ ợc sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội c luôn muốn dồn ng ời bị trị vào b ớc đ ờng cùng?!

Cao h n ý ngh a một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đ ng thời. Hình ảnh con cò ở đây t ợng tr ng cho thân phận long đong, khốn khổ của ng ời nông dân nghèo vì su cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận x ng tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên t ởng giống nh ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của ng ời nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm th ờng nh con tằm, con kiến:

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có ng ời nào nghe.

ây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. iệp từ Th ng thay đ ợc lặp lại bốn lần, biểu hiện sự th ng cảm, xót xa vô hạn. Th ng thay là th ng cho thân phận mình và thân phận của những ng ời cùng cảnh ngộ.

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t là th ng cho những ng ời lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi là th ng cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ng ợc vất vả làm lụng mà vẫn c cực, nghèo khó. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là th ng cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Th ng tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe là th ng cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không đ ợc ánh sáng công lí nào soi tỏ.

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót th ng. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của ng ời dân nghèo trong xã hội c. Sự lặp lại còn có ý ngh a kết nối, mở ra những nỗi th ng xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại đ ợc phát triển và nâng cao thêm.

Trong ca dao, ng ời xa có thói quen khi nhìn nhận sự vật th ờng hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu s ng, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cng có số kiếp, thân phận khốn khổ nh mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi th ng tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra t để cho con ng ời lấy t dệt thành lụa, lnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp th ợng lu giàu có. ã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm th ờng mọc ni đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn đ ợc là bao?! M ợn hình ảnh ấy Ị ng ời lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà h ởng thụ dờng nh chẳng có. iều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, t ởng nh không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc d giữa ng ời đi xa với những ng ời thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha ph ng cầu thực, để trốn thuế trốn su. Con đ ờng m u sinh tr ớc mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Ng ời gạt nớc mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, nh hạc lánh đ ờng mây, nh chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ đ ợc trở lại cố h ng, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp ng ời, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

Câu hát cuối: Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe ý th lấy từ sự tích vua Thục ế mất nớc, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Th ng thay… Th ng thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu th ng thân, th ng phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống nh một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của ng ời phụ nữ nông thôn trong xã hội c. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa ph ng của một vùng sông nớc miền Nam.

Tên gọi của trái bần gợi sự liên t ởng đến thân phận ng ời nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng th ờng gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của ng ời phụ nữ trong xã hội phong kiến xa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của ng ời nông dân nghèo khổ xa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, t ng lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. iều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của ảng soi đ ờng dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, c cực đã lùi vào d vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng th ng hom ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rm rạ của một quá khứ ch a xa.
0 phiếu
bởi ♬ ♪ ♥ Izanami ♥ ♪♫ Cử nhân (3.5k điểm)
Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

 
1.    Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

2.    Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3.    Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1 : Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:
 
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
 
Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.
 
Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;
 
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?
 
Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?!
 
Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.
 
Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:
 
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kều ra máu có người nào nghe.
 
Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.   
 
Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ.
 
Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.
 
Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía.
 
Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy Ị người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.
 
Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?
 
Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.
 
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.
 
Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam.
 
Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.
 
Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.
 
Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo khổ xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.
 
Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng thương hom ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một quá khứ chưa xa.
bởi ♬ ♪ ♥ Izanami ♥ ♪♫ Cử nhân (3.5k điểm)
Hỏi làm gì , biết giống nó thôi 
bởi <<*Snow White*>> Cử nhân (2.8k điểm)
Mk thì nghĩ bn ý là con trai!
0 phiếu
bởi Diệp Hiểu Liên Cử nhân (2.0k điểm)

Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

 

1.    Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

2.    Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3.    Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

 

 

 Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

b

 

 

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

 

Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

 

Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

 

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

 

Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

 

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?!

 

Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

 

Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

 

Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kều ra máu có người nào nghe.

 

Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.   

 

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ.

 

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.

 

Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía.

 

Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy Ị người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.

 

Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

 

Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

 

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

 

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam.

 

Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

 

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

 

Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo khổ xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.

 

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng thương hom ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một quá khứ chưa xa.

0 phiếu
bởi lehongthuy Học sinh (119 điểm)

smileyNhững câu hát than thân ngoài ý ngh a than thân trách phận còn có ý ngh a, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đ ng thời. iều đó đ ợc thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:
1. N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?
2. Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe.
3. Thân em nh trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể th lục bát cổ truyền với âm h ởng ngậm ngùi, th ng cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ th ờng thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp ng ời nghèo khổ trong xã hội c (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu th ờng là những cụm từ nh Th ng thay… Thân em nh … và nội dung ý ngh a đ ợc thể hiện dới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1 : Trong ca dao xa, ng ời nông dân th ờng m ợn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét t ng đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nớc. Cò gần gi bên ng ời nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành ng ời bạn để ng ời nông dân chia sẻ tâm tình:

N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật t ng phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng th ng của con cò. Giữa trời nớc mênh mông, cò lủi thủi, đ n côi, lầm li kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. ã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đ ng đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao nh một tiếng thở dài não nề, nh một lời trách móc, oán than tr ớc nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dới để mò tép, mò tôm, ng ời nông dân ngậm ngùi liên t ởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nh ng nó vẫn không đ ợc sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội c luôn muốn dồn ng ời bị trị vào b ớc đ ờng cùng?!

Cao h n ý ngh a một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đ ng thời. Hình ảnh con cò ở đây t ợng tr ng cho thân phận long đong, khốn khổ của ng ời nông dân nghèo vì su cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận x ng tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên t ởng giống nh ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của ng ời nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm th ờng nh con tằm, con kiến:

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có ng ời nào nghe.

ây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. iệp từ Th ng thay đ ợc lặp lại bốn lần, biểu hiện sự th ng cảm, xót xa vô hạn. Th ng thay là th ng cho thân phận mình và thân phận của những ng ời cùng cảnh ngộ.

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t là th ng cho những ng ời lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi là th ng cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ng ợc vất vả làm lụng mà vẫn c cực, nghèo khó. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là th ng cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Th ng tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe là th ng cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không đ ợc ánh sáng công lí nào soi tỏ.

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót th ng. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của ng ời dân nghèo trong xã hội c. Sự lặp lại còn có ý ngh a kết nối, mở ra những nỗi th ng xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại đ ợc phát triển và nâng cao thêm.
Trong ca dao, ng ời xa có thói quen khi nhìn nhận sự vật th ờng hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu s ng, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cng có số kiếp, thân phận khốn khổ nh mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi th ng tâm gây xúc động thấm thía.
Tằm ăn lá dâu, nhả ra t để cho con ng ời lấy t dệt thành lụa, lnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp th ợng lu giàu có. ã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm th ờng mọc ni đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn đ ợc là bao?! M ợn hình ảnh ấy Ị ng ời lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà h ởng thụ dờng nh chẳng có. iều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, t ởng nh không thể tìm ra lối thoát.
Câu hát: Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc d giữa ng ời đi xa với những ng ời thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha ph ng cầu thực, để trốn thuế trốn su. Con đ ờng m u sinh tr ớc mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Ng ời gạt nớc mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, nh hạc lánh đ ờng mây, nh chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ đ ợc trở lại cố h ng, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp ng ời, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?
Câu hát cuối: Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe ý th lấy từ sự tích vua Thục ế mất nớc, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Th ng thay… Th ng thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu th ng thân, th ng phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống nh một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.
Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của ng ời phụ nữ nông thôn trong xã hội c. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa ph ng của một vùng sông nớc miền Nam.
Tên gọi của trái bần gợi sự liên t ởng đến thân phận ng ời nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng th ờng gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.
Thân phận của ng ời phụ nữ trong xã hội phong kiến xa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.
Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của ng ời nông dân nghèo khổ xa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, t ng lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. iều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của ảng soi đ ờng dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.
Ngày nay, cuộc sống buồn đau, c cực đã lùi vào d vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng th ng hom ông bà,
cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rm rạ của một quá khứ ch a xa.

0 phiếu
bởi <<*Snow White*>> Cử nhân (2.8k điểm)
Những câu hát than thân ngoài ý ngh a than thân trách phận còn có ý ngh a, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đ ng thời. iều đó đ ợc thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1. N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

2. Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe.

3. Thân em nh trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể th lục bát cổ truyền với âm h ởng ngậm ngùi, th ng cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ th ờng thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp ng ời nghèo khổ trong xã hội c (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu th ờng là những cụm từ nh Th ng thay… Thân em nh … và nội dung ý ngh a đ ợc thể hiện dới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1 : Trong ca dao xa, ng ời nông dân th ờng m ợn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét t ng đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nớc. Cò gần gi bên ng ời nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành ng ời bạn để ng ời nông dân chia sẻ tâm tình:

N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật t ng phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng th ng của con cò. Giữa trời nớc mênh mông, cò lủi thủi, đ n côi, lầm li kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. ã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đ ng đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao nh một tiếng thở dài não nề, nh một lời trách móc, oán than tr ớc nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dới để mò tép, mò tôm, ng ời nông dân ngậm ngùi liên t ởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nh ng nó vẫn không đ ợc sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội c luôn muốn dồn ng ời bị trị vào b ớc đ ờng cùng?!

Cao h n ý ngh a một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đ ng thời. Hình ảnh con cò ở đây t ợng tr ng cho thân phận long đong, khốn khổ của ng ời nông dân nghèo vì su cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận x ng tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên t ởng giống nh ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của ng ời nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm th ờng nh con tằm, con kiến:

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có ng ời nào nghe.

ây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. iệp từ Th ng thay đ ợc lặp lại bốn lần, biểu hiện sự th ng cảm, xót xa vô hạn. Th ng thay là th ng cho thân phận mình và thân phận của những ng ời cùng cảnh ngộ.

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t là th ng cho những ng ời lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi là th ng cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ng ợc vất vả làm lụng mà vẫn c cực, nghèo khó. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là th ng cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Th ng tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe là th ng cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không đ ợc ánh sáng công lí nào soi tỏ.

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót th ng. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của ng ời dân nghèo trong xã hội c. Sự lặp lại còn có ý ngh a kết nối, mở ra những nỗi th ng xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại đ ợc phát triển và nâng cao thêm.

Trong ca dao, ng ời xa có thói quen khi nhìn nhận sự vật th ờng hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu s ng, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cng có số kiếp, thân phận khốn khổ nh mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi th ng tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra t để cho con ng ời lấy t dệt thành lụa, lnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp th ợng lu giàu có. ã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm th ờng mọc ni đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn đ ợc là bao?! M ợn hình ảnh ấy Ị ng ời lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà h ởng thụ dờng nh chẳng có. iều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, t ởng nh không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc d giữa ng ời đi xa với những ng ời thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha ph ng cầu thực, để trốn thuế trốn su. Con đ ờng m u sinh tr ớc mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Ng ời gạt nớc mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, nh hạc lánh đ ờng mây, nh chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ đ ợc trở lại cố h ng, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp ng ời, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

Câu hát cuối: Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe ý th lấy từ sự tích vua Thục ế mất nớc, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Th ng thay… Th ng thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu th ng thân, th ng phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống nh một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của ng ời phụ nữ nông thôn trong xã hội c. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa ph ng của một vùng sông nớc miền Nam.

Tên gọi của trái bần gợi sự liên t ởng đến thân phận ng ời nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng th ờng gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của ng ời phụ nữ trong xã hội phong kiến xa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo khổ xa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, thiên tai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của ảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cực nhọc đã lùi vào dang vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng th ng hom ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một quá khứ cha xa.
0 phiếu
bởi milion Thần đồng (1.4k điểm)
Những câu hát than thân ngoài ý ngh a than thân trách phận còn có ý ngh a, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đ ng thời. iều đó đ ợc thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1. N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

2. Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe.

3. Thân em nh trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể th lục bát cổ truyền với âm h ởng ngậm ngùi, th ng cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ th ờng thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp ng ời nghèo khổ trong xã hội c (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu th ờng là những cụm từ nh Th ng thay… Thân em nh … và nội dung ý ngh a đ ợc thể hiện dới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1 : Trong ca dao xa, ng ời nông dân th ờng m ợn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét t ng đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nớc. Cò gần gi bên ng ời nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành ng ời bạn để ng ời nông dân chia sẻ tâm tình:

N ớc non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật t ng phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng th ng của con cò. Giữa trời nớc mênh mông, cò lủi thủi, đ n côi, lầm li kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. ã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đ ng đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao nh một tiếng thở dài não nề, nh một lời trách móc, oán than tr ớc nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dới để mò tép, mò tôm, ng ời nông dân ngậm ngùi liên t ởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nh ng nó vẫn không đ ợc sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội c luôn muốn dồn ng ời bị trị vào b ớc đ ờng cùng?!

Cao h n ý ngh a một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đ ng thời. Hình ảnh con cò ở đây t ợng tr ng cho thân phận long đong, khốn khổ của ng ời nông dân nghèo vì su cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận x ng tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên t ởng giống nh ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của ng ời nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm th ờng nh con tằm, con kiến:

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t . Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có ng ời nào nghe.

ây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. iệp từ Th ng thay đ ợc lặp lại bốn lần, biểu hiện sự th ng cảm, xót xa vô hạn. Th ng thay là th ng cho thân phận mình và thân phận của những ng ời cùng cảnh ngộ.

Th ng thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả t là th ng cho những ng ời lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Th ng thay l kiến li ti, Kiếm ăn đ ợc mấy phải đi tìm mồi là th ng cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ng ợc vất vả làm lụng mà vẫn c cực, nghèo khó. Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là th ng cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Th ng tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe là th ng cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không đ ợc ánh sáng công lí nào soi tỏ.

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót th ng. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của ng ời dân nghèo trong xã hội c. Sự lặp lại còn có ý ngh a kết nối, mở ra những nỗi th ng xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại đ ợc phát triển và nâng cao thêm.

Trong ca dao, ng ời xa có thói quen khi nhìn nhận sự vật th ờng hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu s ng, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cng có số kiếp, thân phận khốn khổ nh mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi th ng tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra t để cho con ng ời lấy t dệt thành lụa, lnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp th ợng lu giàu có. ã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm th ờng mọc ni đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn đ ợc là bao?! M ợn hình ảnh ấy Ị ng ời lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà h ởng thụ dờng nh chẳng có. iều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, t ởng nh không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: Th ng thay hạc lánh đ ờng mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc d giữa ng ời đi xa với những ng ời thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha ph ng cầu thực, để trốn thuế trốn su. Con đ ờng m u sinh tr ớc mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Ng ời gạt nớc mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, nh hạc lánh đ ờng mây, nh chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ đ ợc trở lại cố h ng, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp ng ời, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

Câu hát cuối: Th ng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có ng ời nào nghe ý th lấy từ sự tích vua Thục ế mất nớc, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Th ng thay… Th ng thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu th ng thân, th ng phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống nh một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của ng ời phụ nữ nông thôn trong xã hội c. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa ph ng của một vùng sông nớc miền Nam.

Tên gọi của trái bần gợi sự liên t ởng đến thân phận ng ời nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng th ờng gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của ng ời phụ nữ trong xã hội phong kiến xa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của ng ời nông dân nghèo khổ xa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, t ng lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. iều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của ảng soi đ ờng dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, c cực đã lùi vào d vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng th ng hom ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rm rạ của một quá khứ ch a xa.

s
0 phiếu
bởi 0988288850 Học sinh (120 điểm)
hay quá lop676 ơi
bởi dat97tqt Tiến sĩ (12.7k điểm)
Chào bạn,

Vì bạn là thành viên mới nên mình sẽ nhắc nhở thôi nha:

1. Không trả lời các câu hỏi với nội dung: điều này tôi không biết, cái này khó quá,... (mình đã ẩn đi trong phần duyệt). Chỉ nên bình luận các nội dung trên tại mục: Bình luận

2. Nếu tiếp tục vi phạm, câu trả lời của bạn sẽ được tính là spam và bị trừ lỗi. Hãy đọc bài này của mình và tự ẩn nó đi ( câu trả lời với nội dung "hay quá lop676 ơi" cũng được tính là spam)

Các câu hỏi liên quan

0 phiếu
1 trả lời
Nêu ví dụ về câu ca dao than thân
đã hỏi 25 tháng 9, 2019 trong Ngữ văn lớp 7 bởi xmak1208 Cử nhân (3.2k điểm)
+1 thích
1 trả lời
cảm nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua bài thơ bánh trôi nước và những câu ca dao bắt đầu bằng từ thân em
đã hỏi 21 tháng 1, 2017 trong Ngữ văn lớp 7 bởi Khách
0 phiếu
1 trả lời
-Trăng quầng thì han trăng tán thì mưa - Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật. -Mưa tháng 3 hoa đất, Mưa tháng 4 hư đất -Tháng 2 trồng và, tháng ba trồng đô -Người đẹp vì lua lúc tốt vì phân -Nuôi lợn ăn cơm nằm nuôi tằm ăn cơm đứng -Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông Giải nghĩa nha
đã hỏi 12 tháng 1, 2017 trong Ngữ văn lớp 7 bởi lehoanganh962004 Thần đồng (1.4k điểm)
+1 thích
18 câu trả lời
viết đoạn văn từ 10 đến 15 câu phát biểu cảm nghĩ cùa em về thân phận và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến qua bài " Bánh trôi nước"
đã hỏi 1 tháng 11, 2016 trong Ngữ văn lớp 7 bởi hoanglinh2814 Tiến sĩ (12.8k điểm)
+1 thích
2 câu trả lời
Tìm những câu ca dao nói về chủ đề than thân (Nhanh mk tick nha, nhớ bỏ phiếu cho mk đó)  
đã hỏi 23 tháng 2, 2017 trong Ngữ văn lớp 6 bởi michuai Thần đồng (666 điểm)
+1 thích
2 câu trả lời
0 phiếu
1 trả lời
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ
đã hỏi 29 tháng 10, 2019 trong Ngữ văn lớp 7 bởi susikimivi2007534 Học sinh (183 điểm)
+1 thích
3 câu trả lời
đã hỏi 2 tháng 12, 2018 trong Ngữ văn lớp 7 bởi nhokmeoyeutien Cử nhân (2.5k điểm)
+2 phiếu
1 trả lời
Phát biểu cảm nghĩ về một bài ca dao, dân ca, tục ngữ ở địa phương Quảng Ngãi về di tích lịch sử.
đã hỏi 17 tháng 1, 2018 trong Ngữ văn lớp 7 bởi hoangvy Cử nhân (3.7k điểm)

HOT 1 giờ qua

  1. monmon70023220

    686 Điểm

  2. Darling_274

    215 Điểm

  3. minhquanhhqt160

    168 Điểm

  4. tngnhatganh117

    94 Điểm

Phần thưởng hằng tháng
Hạng 1: 200.000 đồng
Hạng 2: 100.000 đồng
Hạng 3: 50.000 đồng
Hạng 4: 20.000 đồng
Phần thưởng bao gồm: mã giảm giá Shopee, Nhà Sách Phương Nam, thẻ cào cùng nhiều phần quà hấp dẫn khác sẽ dành cho những bạn tích cực nhất của tháng. Xem tại đây
Bảng xếp hạng cập nhật 30 phút một lần
...