Vẻ đẹp của Thúy Vân tiếp tục được diễn tả bằng câu “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”, tóc tựa mây, là mái tóc dài và đen nhánh, từ đó ta cũng có thể phần nào suy ra được tính cách của nàng Vân mặc dù Nguyễn Du không đề cập đến. Đó là biểu trưng cho người con gái hiền dịu, tính tình bình đạm, trọng tình nghĩa, và rất mực chung thủy. Còn ý “tuyết nhường màu da” thì có lẽ không cần phải bàn cãi, lấy màu tuyết để chỉ màu da, da trắng như tuyết, đó là vẻ đẹp tuyệt mỹ sánh ngang với thiên nhiên tạo hóa, là cái phúc của nàng Vân. Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả cùng với những từ nhân hóa “thua”,
“nhường” của thiên nhiên, khi thiên nhiên cũng chịu lùi về sau nhường bước cho vẻ đẹp ấy thì phải chăng Nguyễn Du đang ngụ ý báo hiệu phần đời còn lại của Thúy Vân sẽ được suôn sẻ mà không gợn nhiều sóng gió?
Thúy Vân đã đẹp đến thế nhưng bằng nghệ thuật đòn bẩy tài hoa, Nguyễn Du cho thấy Kiều lại càng thêm phần đẹp hơn qua bốn câu thơ sau:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”
So với Thúy Vân, Thúy Kiều dường như được Nguyễn Du vận dụng triệt để thủ pháp ước lệ tượng trưng.
Nếu như ở Vân tác giả còn chỉ rõ vẻ đẹp của từng bộ phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì ở Thúy Kiều, hầu như Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự liên tưởng ra bức tranh vẻ đẹp nàng Kiều. “Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như nước mùa thu, với những rung động nhẹ nhàng, mà nói đến đôi mắt mang màu nước, lại còn là mùa thu thì đó lại gợi cho ta một vẻ đẹp tuyệt trần, yếu đuối, và vô cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thời chỉ ra rằng người có đôi mắt ấy lại là người đa sầu, đa cảm và cũng là người có số kiếp truân chuyên, vận mệnh đào hoa. Tương tự “nét xuân sơn”, tức là chỉ đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến người ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt, đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ. Thế nhưng Nguyễn Du tại sao không so với những sự vật khác mà lại gợi ra đôi mày của Kiều bằng hình ảnh núi non, điều này cũng làm ta phải suy nghĩ. Có thể giải thích rằng đó cũng lại là một ngụ ý nữa về cuộc đời của Kiều, cũng gập ghềnh trắc trở y như dáng núi, hết lên lại xuống, khó có được ngày hiền hòa yên giấc.
Đó là nói về đôi mắt, để nói về vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du còn có câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ bề mặt chữ ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy Thúy Kiều là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn mà khác hẳn với cái vẻ đẹp trang nhã, nhẹ nhàng của cô em Thúy
Vân. So với “Làn thu thủy, nét xuân sơn” thì câu thơ này lại càng mơ hồ không rõ là Nguyễn Du muốn phiếm chỉ vẻ đẹp nào của Thúy Kiều. Thế nhưng từ chữ “thắm” có lẽ là tác giả muốn miêu tả nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng phải ghen tị vì chẳng tươi được bằng đôi môi của nàng. Một cách hiểu khác, có thể “thắm” ở đây là chỉ vẻ đẹp thiên tiên, tuyệt trần, đằm thắm của Thúy Kiều mà không một loài hoa nào có thể sánh ngang được. Cách hiểu này khiến ta liên tưởng đến một trong bốn tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại, nàng Dương Quý phi với vẻ đẹp “tu hoa”, đến hoa cũng phải xấu hổ vì không sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng đặc sắc trong nghệ thuật gợi tả ước lệ của Nguyễn Du, ai cũng biết rằng loài liễu là loài nức danh với bản tính mềm mại, dịu dàng, thế nhưng khi so với
Kiều thì lại phải hờn vì “kém xanh”. Ở đây xanh tức là chỉ sức sống, sự dẻo dai, cũng đồng nghĩa với việc gợi ra cái dáng hình lả lướt, mềm mại, uyển chuyển tuyệt thế so với liễu chỉ có hơn chứ không kém của Thúy Kiều. Như vậy so với Thúy Vân, thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn được gợi ra thông qua dáng hình mềm mại, yếu đuối, mà có lẽ nghĩ sâu hơn ta có thể tưởng tượng được thân hình tuyệt thế của nàng.
Tuy nhiên, khác với Thúy Vân được thiên nhiên ưu ái “thua”, “nhường” thì vẻ đẹp của Thúy Kiều đã khiến cho thiên nhiên giận dữ với hai từ nhân hóa “ghen”, “hờn”. Có thể thấy nét ghen tị của thiên nhiên mà Nguyễn Du đem đến cũng như một lời dự đoán số phận của Kiều sẽ gặp phải lắm trắc trở, thương đau. Bởi lẽ, khi thiên nhiên đã không thuận lòng với vẻ đẹp của nàng thì sẽ xui khiến cho nàng nếm trải những mất mát, tủi khổ. Đây cũng là một cái tài trong nghệ thuật dụng từ của đại thi hào dân tộc.
Gấp lại những trang thơ của Nguyễn Du cũng như gấp lại bức tranh vẻ đẹp tuyệt diệu của chị em nhà Kiều nhưng lại mở ra bao khuôn nhạc lắng đọng trong lòng người đọc. Khuôn nhạc ấy là một tuyệt khúc bởi cấu trúc cân đối hài hòa, những từ nhân hóa ẩn dụ sâu sắc cùng bút pháp ước lệ tượng trưng tài ba đã khắc tạc rõ nét đẹp của chị em Thúy Kiều vào lòng người đọc. Nguyễn Du đã thành công khi giới thiệu và miêu tả chung về hai chị em đầy đặc sắc, để từ đó gợi ra sự tò mò cho độc giả về những chuyển biến trong phần đời còn lại của nhân vật.
Thời gian càng lùi xa, vẻ đẹp của “Truyện Kiều” càng hiện lên rực rỡ, tư tưởng của Nguyễn Du càng bộc lộc sự thâm thúy, sâu sắc. Tiếp cận với thế giới nghệ thuật trong “Truyện Kiều” là cảm nhận được tính hàm súc, mới lạ của mạch thơ đứt nối không theo tính liên tục của thời gian và duy nhất của không gian nhưng lại diễn tả mạch vận động nhất quán của dòng tâm tư. Ta thấy rằng mười hai câu thơ không chỉ hoàn thành nhiệm vụ miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật “thi trung hữu họa” bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ gieo mãi vào sâu trong lòng người đọc sự ấn tượng sâu sắc đối với vẻ đẹp của những người phụ nữ tuyệt sắc giai nhân.