I. MỞ BÀI:
Trong thi đàn văn học trung đại, đề tài về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, đó cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Nhưng với Trần Tế Xương – nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền thơ ca nước nhà thì ngược lại. Ông là một nhà thơ tài năng, hoạt động dưới bút danh Tú Xương. Thơ của ông có tính trào phúng, châm biếm những lại được nhiều người yêu thích vì đậm chất trữ tình. Ông luôn trân trọng, ca ngợi người vợ hiền của mình là bà Tú, điều đó được thể hiện qua mười tác phẩm về bà. Nổi bật trong số đó chính là thi phẩm tuyệt bút “Thương vợ” khắc họa lên hình ảnh người vợ với đầy vất vả bằng ngòi bút chân thực, giản dị, chứa đựng trong ý thơ là sự cảm thông sâu sắc, sự trách móc chính bản thân mình của nhà thơ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
II. THÂN BÀI:
1. “Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
- “quanh năm”: sự tuần hoàn lặp đi lặp lại không hề ngừng của thời gian, từ năm này qua năm khác.
→ Thời gian luôn tuần hoàn như thế trôi đi, tuổi xuân của bà Tú cũng lặng thầm đếm bước.
- “mom sông”: không gian chật hẹp, không phải là nơi buôn bán tấp nập và sầm uất.
→ Tần tảo mưu sinh đêm ngày ở đó để có thể chăm lo cho “năm con với một chồng”.
- Nhịp thơ biến đổi 2/2/1/2 thể hiện sự ngập ngừng, ngắt quãng, cũng như đầy tủi hổ khi ông phải “ăn theo” con, “ăn bám” vợ.
- “Năm con”: số nhiều, tưởng chừng như đầy vất vả nhưng dù sao chỉ cần lo đủ cho chúng cơm ăn, áo mặc.
- “một chồng”: ít nhưng chi phí còn hơn với năm đứa con kia, chồng không những phải được ăn ngon mà còn phải mặc đẹp.
2. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
- Hình ảnh “con cò”: biểu tượng cho người mẹ, người phụ nữ.
- “thân cò”: phép ẩn dụ đồng nhất với thân phận người vợ.
→ Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời.
- “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”: đảo ngữ để làm tăng nỗi cơ cực, vất vả của bà Tú.
- “khi quãng vắng”, “buổi đò đông”: nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều vất vả.
→ Không gian lẫn thời gian đều chứa đầy lo âu, nguy hiểm, bất trắc thế nhưng bà chẳng bao giờ từ bỏ, cũng chưa một lần oán than.
3. “Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.”
- Thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”: “một duyên” tương phản với “hai phận”, “năm nắng” với “mười mưa”.
→ Các từ là bội số của nhau qua từng cặp một, thể hiện sự vất vả, dãi dầu của bà Tú ngày càng tăng dần theo thời gian.
- “Duyên”: tình yêu, hạnh phúc, là sự kết hợp đẹp đẽ mà bà Tú từng có khi may mắn được cái “duyên” sánh bước cùng người thông minh, hay chữ, nghĩa tình như ông Tú.
- “hai nợ”: một cái “duyên” ấy phải đánh đổi lại bằng cả “hai nợ”.
- “âu đành phận”, “dám quản công”: bà vẫn luôn cam chịu số phận cực nhọc, không ngại công sức, bà gánh hết phần khó về mình.
→ Ở bà Tú là thái độ chính chắn trước duyên phận, độ lượng trước hoàn cảnh.
4. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
- “ăn ở bạc”: tự trách mình, vai trò người chồng, người cha đáng lẽ phải làm trụ cột gia đình nhưng chẳng giúp ích được gì thì cũng như “hờ hững” với vợ con.
- Ông chua xót phê phán cái “thói đời” là xã hội đương thời thối nát. Chính cái xã hội phong kiến chứa đầy những tập tục cổ hủ cùng miệng đời thị phị, đàm tiếu không cho phép ông đường đường chính chính gánh giúp vợ một phần khó khăn.
→ Dẫu là cái bóng mờ nhạt trong gia đình nhưng nhà thơ vẫn không hề mang thái độ thản nhiên với nhọc nhằn của vợ. Tú Xương tuy không phải người chồng hoàn hảo nhưng cũng là người chồng có nhân cách đáng quý hơn ai hết.