Triều đại nhà Trần là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc Việt Nam. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta không những được thể hiện qua những lần kháng chiến chống quân xâm lược mà còn ở thơ văn đời Trần – tiếng nói của những anh hùng, thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt với lòng mong muốn giữ vững sơn hà xã tắc và nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt. Bởi thế, bài thơ “Tỏ lòng” là lời nói lên khát khao muốn đòi lại độc lập, chủ quyền dân tộc của Phạm Ngũ Lão ( 1255-1320) nói riêng trước cảnh quê hương chìm trong binh đao khói lửa với ý chí nam nhi quân tử “Nam nhi chí ở bốn phương” của những người thanh niên trẻ thời xưa nói chung
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
Bài thơ có nhan đề chữ Hán là "Thuật hoài" : "Thuật" là kể lại, là bày tỏ; "hoài" là nỗi lòng. Dịch thành "Tỏ lòng", nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng và được ra đời trong hào khí Đông A ngùn ngụt giữa sự quyết chiến, quyết thắng của quân dân nhà Trần khi giặc Mông-Nguyên sang xâm lược. Và bài thơ Tỏ lòng là một minh chứng tiêu biểu cho quy luật sống còn của văn chương nghệ thuật xưa nay: “quý hồ tinh bất quý hồ đa” (quý tinh túy, không có nhiều)
Múa giáo non sông trải mấy thu
(Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu )
Hình ảnh rõ nét về người tráng sĩ hiện lên trong tư thế múa giáo đầy ấn tượng, nhưng có lẽ đã vơi bớt phần hiên ngang, hùng vĩ so với bản gốc cầm ngang ngọn giáo “hoành sóc” sẵn sàng chiến đấu vô cùng dũng mãnh. Câu thơ như không phải ngẫu nhiên mà có sự sắp xếp để miêu tả sống động, chân thực nhất của hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc về không gian lại vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử của người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng, sẵn sàng tuyên chiến với kẻ thù để bảo vệ non sông, bất chấp thời gian trôi. "Kháp kỉ thu" – trải mấy thu, đã qua bao lần thu đến rồi đi, hình ảnh kia vẫn không một chút suy dời, vẫn vững vàng như vậy, vẫn oai vệ như thế, bởi nó đâu phải được gầy dựng trong một phút chốc để mà dễ dàng tan biến, hình ảnh người tráng sĩ thời Trần đã được hun đúc từ bao nhiêu cuộc chiến, bao nhiêu thử thách chông gai. Có thể nói đó là hình tượng chủ đạo ngời sáng lên ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Song dù có cam go đến mấy, hiểm nguy đến mấy, bóng người cầm ngang ngọn giáo ấy vẫn vững vàng tư thế, vẫn bền bỉ mãi chẳng chuyển dời:
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
( Tam quân tì hổ khí thôn ngưu )
Một lần nữa, Phạm Ngũ Lão lại khuấy lên không khí, ý chí chiến đấu dũng mãnh của cả dân tộc chỉ qua dòng thơ ngắn gọn, cô đúc. Bằng biện pháp nghệ thuật cường điệu hoá sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi với cái khí thế “phá cường địch, báo hoàng ân” như ngút trời, từng đoàn quân “phụ tử chi binh” ấy ào ào ra trận, không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. Thủ pháp ẩn dụ so sánh “khí thôn Ngưu” rất độc đáo, mang ý nghĩa tráng chí, át đi và làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời hoặc được biết như hình ảnh nuốt trôi trâu – tượng trưng cho sức mạnh phi thường, không gì đánh bại được. Thật là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta mà tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ. Tất cả như không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc và cụ thể hóa sức mạnh của quân dân ta, mà còn phản ánh một thời kỳ lịch sử hào hùng của thời Trần.
Với giọng điệu dứt khoát, không có thái độ lưỡng lự hay sợ sệt, lời thơ ở đây đã thể hiện sự anh hùng của người lính trên chiến trường, trong thời khắc sinh ly tử biệt cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào, những người nam nhi không hề đắn đo, do dự
Công danh nam tử còn vương nợ
( Nam nhi vị liễu công danh trái )