Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù nhưng lại là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp mà bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập, nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ.. Có thể thấy, Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, sử dụng những hình ảnh so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau tạo nên một phong cảnh hiện thực cũng như tình huống đầy kịch tính
Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài... thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng, nâng niu cái tài, cái đẹp. Đặc biệt, cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.. Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. Từ đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người. Có thể thấy, qua cảnh cho chữ, nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ PHÁP.
“Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Lúc này, không còn tử tù và quản ngục, thơ lại mà chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp hay sự thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Chúng như đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới, đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Khép lại dòng cảm xúc của tác giả, ta vẫn không khỏi cảm phục trước những vẻ đẹp thanh cao của nhân vật Huấn Cao. Thành công của “Chữ người tử tù” là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo, kịch tính; khắc họa thành công tính cách nhân vật, tạo không khí trang trọng, màu sắc lịch sử cổ kính, bi tráng qua hệ thống từ Hán-Việt. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Phải nói, tác phẩm “Chữ người tử tù” thật sự là sự kết hợp giữa cảnh và tình. Cảnh được khúc xạ qua tình và tình được bật lên từ cảnh. Đồng thời không thể không kể đến nghệ thuật phục bút tả thực, đối lập, và ngôn ngữ sống động, có hồn, có nhịp điệu của Nguyễn Tuân. Chỉ một tác phẩm, Nguyễn Tuân đã tạc vào thời gian bức họa đẹp về một con người tài năng, nghĩa tình như Huấn Cao.
Tác phẩm tuy đã khép lại nhưng vẫn gieo vào lòng người đọc sự vững tin rằng cái đẹp là cái vĩnh hằng và bất khả chiến bại, tin rằng “cái đẹp sẽ cứu vãn thế giới”. Ngoài việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, truyện còn hám chứa một ý tưởng sâu sắc: thương tiếc những tài năng bị hãm hại, vùi chôn và cái đẹp là sức mạnh kì diệu không một thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt được. “Chữ người tử tù” xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng, có thể tồn tại vững vàng trước sự khắt khe của gió bụi thời gian mà không hề bị phai mờ, đúng như lời Vũ Ngọc Phan từng ưu ái nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".