Trong thi đàn văn học trung đại, đề tài về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, đó cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Nhưng với Trần Tế Xương – nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền thơ ca nước nhà thì ngược lại. Ông là một nhà thơ tài năng, hoạt động dưới bút danh Tú Xương. Thơ của ông có tính trào phúng, châm biếm những lại được nhiều người yêu thích vì đậm chất trữ tình. Ông luôn trân trọng, ca ngợi người vợ hiền của mình là bà Tú, điều đó được thể hiện qua mười tác phẩm về bà. Nổi bật trong số đó chính là thi phẩm tuyệt bút “Thương vợ” khắc họa lên hình ảnh người vợ với đầy vất vả bằng ngòi bút chân thực, giản dị, chứa đựng trong ý thơ là sự cảm thông sâu sắc, sự trách móc chính bản thân mình của nhà thơ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người vợ giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành. Hai câu đề đã khiến ta hình dung được dáng người phụ nữ với đức tính cần cù, luôn khao khát có được cuộc sống no đủ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Dẫn vào bài thơ, người đọc dễ dàng thấy được từ “quanh năm” chỉ sự tuần hoàn lặp đi lặp lại không hề ngừng của thời gian, từ năm này qua năm khác. Ngay từ đầu Tú Xương đã khái quát ý niệm thời gian cực kỳ tiêu biểu, thời gian luôn tuần hoàn như thế trôi đi, tuổi xuân của bà Tú cũng lặng thầm đếm bước. Bà chôn vùi thanh xuân vào những buổi buôn gánh bán bưng ở mom sông, nơi chẳng chút vững chãi mà còn đầy những cheo leo. Hai từ “mom sông” gợi lên không gian chật hẹp, không phải là nơi buôn bán tấp nập và sầm uất. Nhưng bà phải tần tảo mưu sinh đêm ngày ở đó để có thể chăm lo cho “năm con với một chồng”.
Bà nuôi đủ sáu con người về cả số lượng lẫn chất lượng. Tú Xương tách riêng “năm con” với “một chồng” như tự hạ thấp bản thân mình, xem mình ngang hàng với con, không chỉ thế ông còn đứng cuối cùng. Nhịp thơ biến đổi 2/2/1/2 thể hiện sự ngập ngừng, ngắt quãng, cũng như đầy tủi hổ khi ông phải “ăn theo” con, “ăn bám” vợ. Người phụ nữ thời phong kiến nuôi con được xem như một trách nhiệm thường tình nhưng nuôi chồng thì lại không. “Năm con” là số nhiều, tưởng chừng như đầy vất vả nhưng dù sao chỉ cần lo đủ cho chúng cơm ăn, áo mặc. “Một chồng” tuy ít nhưng chi phí còn hơn với năm đứa con kia, chồng không những phải được ăn ngon mà còn phải mặc đẹp. Ta có thể thấy được bà Tú là một người vợ đảm đang, giỏi giang biết bao mới có thể “nuôi đủ” vật chất lẫn tinh thần cho con và chồng. Qua đó, ta cũng cảm nhận được nỗi lòng của ông Tú, sự ăn năn, hối hận và biết ơn vợ được thể hiện qua từng câu chữ. Thấm thía nỗi gian lao của vợ, ông mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Trong ca dao dân gian, hình ảnh “con cò” đã trở thành một biểu tượng cho người mẹ, người phụ nữ. Chính cội nguồn dân tộc ấy lại tiếp tục chảy mạnh trong hai câu thơ trên của Tú Xương. Hình ảnh “con cò” đã đủ thương tâm bao phần nhưng Tú Xương lại còn đi xa hơn câu ca dao ấy khi sử dụng phép ẩn dụ đồng nhất “thân cò” với thân phận người vợ. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng đảo ngữ “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước” để làm tăng nỗi cơ cực, vất vả của bà Tú. Bát cơm, manh áo mà bà kiếm được để “nuôi đủ năm con với một chồng” phải đánh đổi bằng cách “lặn lội” trong mưa nắng, giành giật “eo sèo” giữa chốn “đò đông”.
Người xưa vẫn thường răn dạy:
“Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”