Nguyễn Trãi không chỉ là người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, mà ông còn là nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Cuối năm 1427 đầu năm 1428, khi nước nhà sạch bóng quân thù, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết "Đại cáo bình Ngô" nhằm thông báo quân ta đại thắng quân Minh, đất nước thái bình. Tác phẩm được xem là áng văn yêu nước của thời đại, là "thiên cổ hùng văn" của đất nước. Tác phẩm còn là bản tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc. Ở đoạn mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo:
"Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nên độc lập,
Cùng Hán, Đường ,Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi."
Đoạn mở đầu bài cáo có vai trò hết sức quan trọng đối với toàn bộ tác phẩm. Ở đoạn này tác giả đã nêu lên nguyên lí chính nghĩa để từ đó làm nền, làm tư tưởng cốt lõi, làm chỗ dựa sức mạnh cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong quá trình chống quân Minh. Trong nguyên lý chính nghĩa của Nguyễn Trãi, có hai nội dung lớn được nêu: một là tư tưởng nhân nghĩa, hai là chân lý về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt.
Trước hết, Nguyễn Trãi nêu cao nguyên lý chính nghĩa dựa trên nền tảng là tư tưởng nhân nghĩa:
"Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo."
Tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo: "Nhân" là thương người, tôn trọng người, "nghĩa" là lẽ phải. Trong tư tưởng Nho Giáo, Khổng Tử đề cao chữ "nhân". Mạnh Tử đề cao chữ "nghĩa". Nhìn chung, "nhân nghĩa" là mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Theo Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" gắn với "yên dân", tức là làm cho dân dân sống yên ổn, no đủ và hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hòa bình. Muốn thế, trong cảnh dân khổ, dân mất nước, dân làm than vì lũ giặc xâm lược thì "nhân nghĩa" trước hết là diệt giặc, cứu nước, cứu dân. Cho nên, vì thương xót "điếu" cho dân chúng bị áp bức mà ta phải đem quân tiêu diệt lũ hung bạo, tức là "trừ bạo". Ngoại xâm là bạo (bạo bên ngoài tới) và bọn gian thần bán nước (bạo ở bên trong), cả hai đều phải trừ. Như vậy, theo Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" phải gắn liền với chống giặc ngoại xâm. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Khẳng định như vậy, Nguyễn Trãi mới bóc trần luận điệu nhân nghĩa, xảo trá của địch, mới phân định rạch ròi: ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa của dân tộc ta phù hợp với đạo lý nhân nghĩa, đem lại cuộc sống thái bình cho nhân dân. Rõ ràng cống hiến to lớn của Nguyễn Trãi là phát triển tư tưởng nhân nghĩa theo hướng tích cực, tiến bộ, mang một ý nghĩa mới đậm đà tính dân tộc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa không còn là một vấn đề đạo đức cá nhân (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) mà còn là một lý tưởng xã hội cao đẹp. Câu văn trang trọng, đĩnh đạc khẳng định: cuộc kháng chiến Lam Sơn của dân tộc ta chính là thực hiện nhân nghĩa.
Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lý chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt cũng la một chân lý khách quan phù hợp với nguyên lý đó.
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nên độc lập,
Cùng Hán, Đường ,Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có."