Làng "Thơ mới" Việt Nam 1930–1945 xuất hiện một giọng thơ thật lạ: Thâm Tâm. Thâm Tâm làm thơ không nhiều, nhưng với “Tống biệt hành" đã góp vào bản đại hòa tấu của phong trào “Thơ mới” (1932–1945), một giai điệu trầm hùng, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc hơn nửa thế kỷ qua. Thâm Tâm vẫn lấy đề tài “tống biệt” quen thuộc. Bài thơ được viết theo lối hành và hơi thơ cổ phong phóng khoáng cùng hồn thơ tráng sĩ ẩn chứa bao điều gợi lên trong lòng người đọc một cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng khó hiểu của thời đại. Phải nói, “Tống biệt hành" là xác, là hồn, là máu thịt của Thâm Tâm. Cho nên, nói đến Thâm Tâm, người ta không quên nhắc đến “Tống biệt hành", và ngược lại. Không chỉ là bài thơ hay nhất của Thâm Tâm. “Tống biệt hành" còn là một bài thơ của nền thơ Việt Nam nói chung.
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm trước:
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị, cùng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót,
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Người ta nói, một bài thơ hay thường có nhiều tầng ý nghĩa. Biết bao thế hệ, biết bao người đã nói “Tống biệt hành" với rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng dường như chưa ai nói hết, nói đúng được tất cả những cái hay của bài thơ một cách trọn vẹn nhất. Cũng như những người đã viết, đang viết và sẽ viết về giá trị của “Tống biệt hành", tôi không dám khẳng định rằng mình đã hiểu được hết những cái hay, cái đẹp của bài thơ. Tôi chỉ biết cứ mỗi lần đọc bài thơ, là một lần tôi mở lòng mình ra, sống hết mình với Thâm Tâm, với “Tống biệt hành".
Không biết đã bao nhiêu lần, những câu thơ thiết tha ấy, rất tự nhiên, đã đi vào lòng tôi, lòng bạn đọc, làm ta xúc động khôn nguôi. Chỉ bằng khổ thơ này, Thâm Tâm đã hoá thân như một “phù thuỷ” hô sóng vào lòng, gọi hoàng hôn lên mắt của người đi kẻ ở trong buổi tiễn đưa:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Chắc đã qua rồi cái thời mà ở nước ta, phương tiện giao thông chủ yếu là con ngựa, là chiếc thuyền. Cuộc tiễn đưa này là ở bến xe, hay một sân ga? Cũng không biết nữa! Chỉ biết rằng "đưa người ta không đưa qua sông", nhưng trong lòng thì dồn lên từng lớp sóng dào dạt. Ngay từ đầu, khi tiếp cận bài thơ, cái tên “Tống biệt hành" đã gây ấn tượng mạnh vào cảm giác của người đọc. "Thơ mới" mà sao “cổ” quá! Ta đã gặp thể hành qua Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, Sở kiến hành của Nguyễn Du, hay về sau này là trong thơ Quang Dũng (Tây Tiến)... Ở đây Thâm Tâm đã chọn một thể thơ cổ để thể hiện. Có lẽ cũng vì lẽ đó mà trong “Tống biệt hành" có một bút pháp rất lạ, rất riêng, rất Thâm Tâm.
Trở lại hai câu thơ đầu, một lần nữa ta bắt gặp phong vị cổ kính của bài thơ. Khi ấy, tác giả lại mượn một cuộc tiễn đưa của người xưa trong văn thơ cổ Trung Quốc để nói lên tình cảm của mình trong lần "tống biệt" này. Nỗi xúc động, tình cảm ấy mãnh liệt và dồn dập lắm mới có thể trở thành tiếng sóng trong lòng.
Khổ thơ bốn câu mà tác giả tác dùng đến ba từ “ không”: không đưa, không thắm, không vàng vọt. Thế mà, ta nghe như lại có rất nhiều bâng khuâng, xao động trong lòng người đi – kẻ ở. Cái độc đáo của thủ pháp nghệ thuật trong khổ thơ là ở chỗ nói không để chỉ có. Nói không đưa người sang sông như Kinh Kha xưa, nhưng thật sự là tiễn nhau. Nói không thắm, nhưng tình sao mà lưu luyến thắm thiết đến lạ! Nói không vàng vọt nhưng “hoàng hôn” lại hiện trong đôi mắt người ở lại. Hiểu theo một cách khác thì đó là một buổi chiều bình thường như bao buổi chiều “không thắm”, “không vàng vọt”, nghĩa là trời vẫn xanh như bao nhiêu buổi chiều hạ đã qua. Thế mà trong mắt kẻ tiễn người đưa, đầy ắp hoàng hôn. "Hoàng hôn" – dường như bản thân hai từ ấy đã gợi buồn, chưa buồn. Lúc này nó đậm đặc trong những đôi mắt: thật tài tình và tinh tế, điệp từ "trong" làm câu thơ nuột nà, thanh nhẹ, kéo dài, gợi nỗi buồn tê tái. Sử dụng điệp từ trong một khổ thơ đã khó, thế mà Thâm Tâm đã dám dùng và rất thành công khi để hai tiếng "trong" liền trong một dòng thơ. Hiểu thế nào đi nữa thì âm vang câu thơ vẫn cứ đọng lại một vẻ buồn đưa tiễn. Đoạn thơ thoạt đầu đọc lên, chưa nghĩ tưởng chừng là vô lý; nghĩ ra, ta mới thấy, tình cảm của người đưa sao tha thiết đến vậy?