* Triều nguyễn:
- Nông nghiệp
+ Chú ý việc khai hoang và thi hành các biện pháp di dân, lập ấp và đồn điền. Đặt lại chế độ quân điền.
+ Tuy một số huyện mới được thành lập: Tiền Hải, Thái Bình, Kiêm Sơn, Ninh Bình và hàng trăm đồn điền được thành lập ở Nam Kì nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực cho nông dân. Thời tự Đức, có nơi như phủ Khoái Châu (Hưng Yên) đê vỡ 18 năm liền. Đê điều không được quan tâm, tu sửa, nạn tham nhũng phổ biến.
- Công thương nghiệp:
+ Nhà nước lập nhiều xưởng: đúc tiền, đúc súng, đóng tàu. Ngành khai thác mỏ được mở rộng. Khai thác còn lạc hậu và hoạt động bất thường.
+ Các nghề thủ công vẫn còn phát triển nhưng phân tán.
+ Thợ thủ công phải nộp thuế sản phẩm nặng nề.
+ Buôn bán trong nước có nhiều thuận lợi do đất nước đã thống nhất, xuất hiện những thị tứ mới.
- Ngoại thương: Nói chung nhà nước hạn chế buôn bán với nước ngoài.
* Triều vua Quang Trung:
- Vua Quang Trung bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế và đóng đô ở Phú Xuân.
- Ra “Chiếu khuyến nông” để giải quyết tình trạng ruộng đất bỏ hoang và nạn lưu vong nhờ đó sản xuất nông nghiệp phục hồi nhanh chóng.
- Bãi bỏ hoặc giảm nhẹ nhiều loại thuế, “mở cửa ải, thông thương chợ búa” nhờ đó công thương và buôn bán được phục hồi dần.
- Ban bố “Chiếu lập học” các huyện xã được nhà nước khuyến khích mở trường học, dùng chữ nôm làm chữ viết chính thức của nhà nước.
- Lập Viện Sùng chính để dịch chữ Hán ra chữ Nôm, dùng làm tài liệu học tập.