Những người thân trong gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ngày 19-5-1890), thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung, ra đời tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy, người dân còn gọi là Cụ Phó bảng; 1862 – 1929) là cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy, lớn lên trong một môi trường Nho học dưới sự nuôi dạy của nhà Nho và cha vợ của mình là cụ Hoàng Xuân Đường, ông đỗ cử nhân năm 1894 và Phó bảng năm 1901. Năm 1906, ông được triều đình bổ nhiệm chức Thừa biện bộ Lễ; năm 1909, ông nhậm chức Tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định. Làm quan được ít lâu thì bị triều đình thải hồi vì một "tên cường hào" bị ông bắt giam rồi chết sau khi thả ra hai tháng. Sau đó ông đi vào miền Nam và sống một cuộc đời thanh bạch tại Làng Hòa An, Cao Lãnh, Đồng Tháp cho đến cuối đời.
Hoàng Thị Loan (1868-1901) là mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường, bà được cha mình gả chồng vào năm 15 tuổi. Bà là một hình mẫu cho hình ảnh người Việt Nam hiền hậu và hết lòng vì chồng con: sau khi chồng bà là ông Nguyễn Sinh Sắc đi thi ở Huế, vì túng thiếu tiến bạc nên ngỏ ý mời bà lên kinh giúp ông học tập, bà đã gởi con gái đầu lòng của mình lại Nghệ An và cùng chồng vào Huế. Ở đây bà đã lao động dệt vải vất vả một tay nuôi sống cả gia đình. Năm 1900 sau khi sinh người con thứ tư là Nguyễn Sinh Nhuận, cộng với sự vất vả khó nhọc trước đó bà Hoàng Thị Loan sinh bệnh rồi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901.
Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954) là người chị cả, có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ. Từ thuở thiếu thời, cô đã tiếp thu truyền thống yêu nước, thương người của cả hai gia đình nội, ngoại. Tuổi trẻ cô Nguyễn Thị Thanh là một người thông minh, đẹp người, đẹp nết, đảm đang, mẫn tiệp trong giao tiếp, được nhiều chàng trai ngỏ lời cầu hôn, nhưng cô đều lấy mọi lý do từ chối, gạt bỏ những chuyện riêng tư để hướng về các hoạt động yêu nước. Cô có mối liên hệ chặt chẽ với chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu, hoạt động trong phong trào yêu nước của Đội Quyên, Đội Phấn, làm liên lạc, quyên góp tiền của cho nghĩa quân và phong trào Đông Du. Nhiều lần bị sa vào tay giặc nhưng nhờ trí thông minh và lòng dũng cảm, cô đều vượt qua tất cả. Năm 1946, khi biết Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là em trai mình, cô đã ra Hà Nội thăm em, sau đó trở về quê hương sống cuộc đời của một công dân mẫu mực. Ngày 23/3 năm Giáp Ngọ - 1954, do tuổi cao sức yếu, bệnh tình quá nặng, cô đã ra đi trong niềm thương tiếc của bà con xóm làng và dòng họ.
Nguyễn Sinh Khiêm (1888 – 1950) là con thứ hai của trong gia đình cụ Phó bảng, sau chị cả Nguyễn Thị Thanh và là anh trai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt. Thời thanh niên, ông tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm. Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông còn có biệt danh là "Thầy Nghệ". Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giáng (1897-1960) và có với nhau ba người con nhưng đều chết sớm. Người con duy nhất của hai người, con riêng của bà Giáng, là Hà Hữu Thừa, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Sinh Nhuận (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin, là con trai út trong gia đình, sau khi sinh bé, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và qua đời. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên qua đời mấy tháng sau đó.
Cả gia đình Bác đã hy sinh cho nhân dân, cho đất nước. Cả gia đình Bác đã hòa tan vào mỗi gia đình người Việt Nam hôm nay và mai sau. Mỗi gia đình Việt Nam như có Bác, có hình Bác. Trong trí óc trẻ thơ, tất cả các thiếu nhi Việt Nam đều có Bác. Cả dân tộc đi theo con đường Người chọn, học tập và làm theo lời Người dạy. Gia đình của Người, sống mãi trường tồn cùng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Nếu thấy dài thì bn tóm tắt lại giùm ^_^