Thơ Mới (1932-1945) là thời kì giải phóng cái tôi, để quan niệm phi ngã trong văn chương trung đại không còn là chiếc cũi giam chật hẹp gò ép người nghệ sĩ, ở thời kì này người nghệ sĩ như cánh chim được tự do tung bay, tháo túi sổ lồng. Trong số ấy, Xuân Diệu với bộ y phục tối tân của mình đã trở thành đại biểu tiêu biểu nhất, là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới. Nếu cần tìm một bài thơ bộc lộ rõ nhất về phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu thì đó chỉ có thể là “Vội vàng”- một thi phẩm tuyệt bút đón chào ta bằng cảm xúc vồ vập, những cung bậc rạo rực với cuộc đời của tuổi trẻ. Đặc biệt là đoạn thơ giữa nói lên cảm nhận độc đáo của thi sĩ về thời gian, thúc đẩy con người ta phải sống vội vàng hơn:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…”
Nếu như phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã giải thích rõ lí do phải sống vội vàng:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Đến đây ta không khỏi thắc mắc tại sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm? Chắc có lẽ thi sĩ đang mang trong mình một cách nhìn nhận rất nhạy cảm về thời gian. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi. Xuân Diệu quan niệm thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ một đi sẽ không trở lại thế nên ông luôn trong tâm thế hốt hoảng, lo âu khi thời gian âm thầm đếm bước. Điều đó được thể hiện rõ qua lối điệp cấu trúc “nghĩa là” ở từng câu thơ, cho ta thấy rằng thi nhân rất nhạy cảm trước sự trôi qua nhanh chóng của tuổi trẻ. Một hệ thống tương phản đối lập: tới/qua, non/già,… càng ngầm khẳng định một triết lí: ý nghĩa lớn nhất của đời người là tuổi trẻ, mất đi rồi cuộc đời như đặt dấu chấm hết. Xuân Diệu đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy bằng liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên âm điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào. Sau khi có những nhận thức mới lạ về thời gian, nhà thơ đã có những câu thơ trách hờn với tạo hóa:
“Lòng tôi rộng mà lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
Xuân Diệu đã rất khéo léo khi sử dụng tương phản đối lập giữa “lòng tôi rộng” với “lượng trời cứ chật” để ngầm trách tạo hóa ban cho thời gian xuân thì tuổi trẻ quá ngắn ngủi dù lòng người vẫn hừng hực sức sống. Xuân Diệu đã chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoàn. Với thi sĩ, tuổi trẻ sẽ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Đến đây ta chợt bắt gặp sự đồng điệu trong tâm hồn giữa Xuân Diệu và Nguyễn Trãi qua bài thơ số 3 trong chùm “Thơ tiếc cảnh”:
“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”.
Giống như Xuân Diệu , Nguyễn Trãi cũng tiếc nuối thời trai trẻ qua đi không thể với níu lại được. Vũ trụ có thể tồn tại vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn nhưng dẫu sao “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, bởi lẽ tuổi trẻ tựa bản giao hưởng đẹp nhất trong đời mỗi người, đẹp đến nỗi không thể hòa tấu lại lần thứ hai. Và đó là lí do khiến Xuân Diệu không chỉ trách hờn tạo hóa mà còn ghen tị với tạo hóa, nỗi buồn mỗi lúc mỗi bất lực hơn:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”