Chất béo chỉ trở thành có hại khi con người lạm dụng chúng hoặc ăn các chất dinh dưỡng khác quá với nhu cầu của cơ thể mà lại không vận động, tiêu dùng. Năng lượng từ các chất này sẽ tích tụ thành những lớp mỡ béo ở vùng mông, vùng bụng, đưa tới mập phì.
Mập phì là là khi cân nặng cơ thể quá mức trung bình khoảng 20%.
Muốn tính BMI, chia sức nặng kilo cho bình phương chiều cao tính theo mét.
BMI dưới 18.5 là thiếu ký; từ 18.5- 24.9 là trung bình, từ 25- 29.9 là quá kí, trên 30 là béo phì bệnh hoạn.
Đo vòng bụng cũng là một chỉ dẫn béo gầy: nam từ 102cm (37 inc) trở lên, nữ từ 88cm (31.5 inc) là có nhiều rủi ro. Nên đo ở eo/ thắt lưng, ngay trên xương hông là chính xác.
Ngoài ra cũng có phương pháp để phân tích chất béo cơ thể như đo độ dầy của da với thước cặp (skinfold caliper) hoặc bằng luồng điện sinh học (Bioelectrical Impedance- BEI).
Ngoài số lượng, địa điểm mà chất béo trụ cũng quan trọng: ở nam giới chất béo thường tụ chung quanh bụng với hình dạng như trái táo; nữ giới ở vùng hông, có hình dạng như quả lê.
Béo phì ở vùng bụng đưa tới nhiều rủi ro bệnh tật hơn vì chúng tung những chất béo có hại vào mạch máu, đưa tới cao huyết áp, tắc nghẽn động mạch rồi bệnh tim.
Quá nhiều chất chất béo giữa các cơ quan trong bụng (visceral fat) là rủi ro của tiểu đường loại 2, bệnh tim và cao cholesterol trong máu.”.
Người mập phì thường hay mau mệt, hụt hơi thở nhất là trong khi ngủ hoặc làm việc nặng; thiếu sức sống; đau nhức xương thịt. Họ cũng hay bị bệnh tiêu hóa, bệnh tim, tiểu đường loại 2, xơ gan, sưng phổi, viêm sỏi túi mật, giãn tĩnh mạch, cao huyết áp, lâu lành vết thương, thống phong, hiếm muộn, giảm khả năng đề kháng với bệnh tật, hội chứng Pickwickian với mập phì, đỏ mặt, hụt hơi thở và chóng mặt...
Mập phì cũng tăng nguy cơ ung thư vú, tử cung, nhiếp tuyến, ruột già, thực quản. Riêng nguy cơ ung thư vú tăng rất cao ở phụ nữ lên cân vào tuổi đôi mươi và vào thời kỳ mãn kinh.
Ngoài ra cũng còn phải nói tới ảnh hưởng tâm lý, buồn bực khi bị chế diễu mập thù lù như cái cối xay lúa, không hấp dẫn hoặc kỳ thị trong việc làm, ở trường học…
Mặc dù khuyến cáo này nhắm vào dân chúng tại Hoa Kỳ, nhưng các ý kiến về ăn uống và vận động có thể áp dụng cho mọi người tại mọi quốc gia. Lý do là tại các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển, dịch mập phì đều trên đường gia tăng.
Giáo sư Martin Wiseman, Giàm Đốc dự án nghiên cứu góp ý: “Nếu mọi người làm theo các đề nghị của chúng tôi, họ có thể tin chắc rằng đã tuân theo những lời khuyên quý giá nhất có thể có, căn cứ vào tất cả các nghiên cứu khoa học đã được thực hiện cho tới thời điểm này”.
Chất đạm, còn gọi là protein là một chất hữu cơ giàu dinh dưỡng, là chất căn bản của sự sống mọi tế bào. Trong cơ thể, chất đạm đảm nhận nhiều chức năng quan trọng như cung cấp năng lượng cho một hoạt động cơ thể, xây dựng tế bào mới, bổ sung tế bào hư hao.
Ngoài ra, chất đạm còn ảnh hưởng đến hoạt động của một số loại vitamin, là thành phần cấu tạo nhiễm sắc thể và gen di truyền. Khi khẩu phần ăn thiếu protein có thể dẫn tới việc hấp thu và vận chuyển một số chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng dù trong khẩu phần ăn của cơ thể không thiếu chất dinh dưỡng đó.
Khi trong máu lượng protein thấp, áp lực thẩm thấu trong lòng mạch thấp, dẫn tới hiện tượng nước thoát khỏi lòng mạch vào khoảng gian bào dẫn tới hiện tượng phù nề. Cơ thể thiếu protein sẽ dẫn đến: suy nhược, gầy yếu, rụng tóc, da mất độ đàn hồi, cơ và xương kém phát triển, kinh nguyệt và nội tiết tố rối loạn, da xanh xao…
Protein có nhiều trong thức ăn có nguồn gốc động vật và thường có khá đầy đủ các acid amin cần thiết và tỉ lệ giữa các acid amin khá cân đối như thịt, cá, trứng sữa, tôm, cua, ốc… với hàm lượng từ 7 – 23g/100g thịt gia súc gia cầm.
Protein thực vật nói chung kém giá trị hơn protein động vật do thiếu hay hoàn toàn không có một số acid amin cần thiết, ví dụ gạo thiếu lysin, tryptophan. Sự thiếu hụt này sẽ được khắc phục nếu khẩu phần có sự kết hợp nhiều loại thực phẩm, kết hợp thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật.
Chất đạm, còn gọi là protein là một chất hữu cơ giàu dinh dưỡng, là chất căn bản của sự sống mọi tế bào. Trong cơ thể, chất đạm đảm nhận nhiều chức năng quan trọng như cung cấp năng lượng cho một hoạt động cơ thể, xây dựng tế bào mới, bổ sung tế bào hư hao.
Ngoài ra, chất đạm còn ảnh hưởng đến hoạt động của một số loại vitamin, là thành phần cấu tạo nhiễm sắc thể và gen di truyền. Khi khẩu phần ăn thiếu protein có thể dẫn tới việc hấp thu và vận chuyển một số chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng dù trong khẩu phần ăn của cơ thể không thiếu chất dinh dưỡng đó.
Khi trong máu lượng protein thấp, áp lực thẩm thấu trong lòng mạch thấp, dẫn tới hiện tượng nước thoát khỏi lòng mạch vào khoảng gian bào dẫn tới hiện tượng phù nề. Cơ thể thiếu protein sẽ dẫn đến: suy nhược, gầy yếu, rụng tóc, da mất độ đàn hồi, cơ và xương kém phát triển, kinh nguyệt và nội tiết tố rối loạn, da xanh xao…
Protein có nhiều trong thức ăn có nguồn gốc động vật và thường có khá đầy đủ các acid amin cần thiết và tỉ lệ giữa các acid amin khá cân đối như thịt, cá, trứng sữa, tôm, cua, ốc… với hàm lượng từ 7 – 23g/100g thịt gia súc gia cầm.
Protein thực vật nói chung kém giá trị hơn protein động vật do thiếu hay hoàn toàn không có một số acid amin cần thiết, ví dụ gạo thiếu lysin, tryptophan. Sự thiếu hụt này sẽ được khắc phục nếu khẩu phần có sự kết hợp nhiều loại thực phẩm, kết hợp thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật.