Không có kính thì đã có sao? Ta vẫn cứ “ung dung”, bình thản tiến về phía trước mà không chút nao núng. Từ láy kết hợp đảo ngữ “ung dung” cùng phép điệp cấu trúc làm câu thơ thêm phần nhạc điệu, gợi sự thong thả, tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn gạt bỏ hiểm nguy mà tiến về tương lai. Với tư thế hiên ngang ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
Khi lái xe trong hoàn cảnh thiếu thốn ấy, họ đã phải trải qua rất nhiều hiểm nguy dọc suốt đoạn đường dài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái.”
Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Điệp ngữ “Nhìn thấy” càng tô thêm những hiểm nguy dồn dập luôn trực chờ ập tới người lính. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
Không chỉ dừng lại có thể, người chiến sĩ Trường Sơn còn phải đối mặt với bụi bặm, mưa rơi:
“Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đọc những vần thơ ta không khỏi ngưỡng mộ tinh thần lạc quan, tâm thế tình nguyện hi sinh của những người lính kiên cường. Vì xe không kính mà họ phải chịu cảnh bụi bay vào người như “phun”, một động từ mạnh diễn tả mức độ dày đặc của bụi bay. Tất cả dồn dập ập vào người lính, khiến tóc họ trắng “như người già”. Nhưng với tinh thần lạc quan cao độ, họ không màng việc tắm rửa sạch sẽ, vẫn ngang nhiên “châm điếu thuốc” như một sự thưởng ngoạn, giải trí. Hơn hết, họ còn biến những gian lao, vất vả trở thành niềm vui chia sẻ với nhau khi nhìn nhau trong gương mặt lấm lem mà phá lên cười ha ha. Chính điều đó đã tự nói lên rằng thiếu thốn vật chất không hề đáng sợ, chỉ khi mất mát tinh thần mới là đáng sợ. Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ. Hết “bụi phun” rồi lại tới “mưa tuôn mưa xối”. Nếu như ở trên biện pháp so sánh “như người già” cho ta hình dung dễ dàng chân dung người lính thì ở đây biện pháp so sánh “như ngoài trời” một lần nữa xuất hiện khiến ta cảm nhận được hiện thực vất vả ra sao trên con đường tiến về miền Nam. Mặc dù ngồi trong xe nhưng lại không khác gì ngồi giữa “ngoài trời”. Áo thì ướt đẫm nhưng chỉ là chuyện nhỏ thôi, họ vẫn “chưa cần thay”, đợi lái qua trăm cây số nữa gió lùa áo sẽ “mau khô thôi”. Nghệ thuật dùng từ của tác giả đã biến khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn cả, ta biết rằng nếu dầm mưa và bị gió thổi khô thì sẽ hết sức lạnh, nhưng người lính ở đây đón nhận nó như một điều hiển nhiên, không kêu ca, không oán trách. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính” - tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên tinh nghịch:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Họ - những con người cùng chung lí tưởng chiến đấu, những con người cùng trải qua gian truân từ bom rơi đã sum họp về một nơi tạo thành tiểu đội. Họ truyền sức mạnh, niềm tin chiến thắng qua những cái “bắt tay” xuyên những cửa kính đã vỡ, một hình ảnh không thể nào đẹp hơn. Cái bắt tay độc đáo là nét đẹp ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía, những cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
Sau những lúc lái xe vất vả, những người lính cũng có những phút nghỉ ngơi, vây quần sinh hoạt như một đại gia đình thực thụ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Những câu thơ cho ta thấy các anh đã coi nhau như anh em máu mủ trong một gia đình. Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, mắc võng chông chênh. Tình cảm gia đình của người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
Để kết thúc bài thơ, nhà thơ đã khéo léo sử dụng cấu trúc đầu đuôi tương ứng gợi nhắc lại hình ảnh chiếc xe không kính từ đầu bài thơ để nhấn mạnh những khó khăn mà người lính phải trải qua:
“Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước,
Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kĩ thuật, liên tiếp những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra, những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn, dường như bộ phận nào cũng bị phá hủy: không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước... Ấy vậy mà trên những chiếc xe mang đầy thương tích đó lại có những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền phương lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Dẫu bên ngoài xe có tàn tạ đến đâu nhưng trong xe vẫn còn những trái tim nguyên vẹn, không hề méo mó. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin yêu mãnh liệt vào ngày Bắc – Nam nối liền một dải. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giầu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Nhà văn đã khéo léo tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có”, để khắc tạc chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gãy được những giá trị tinh thần cao đẹp. Để rồi một nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn một cách vẻ vang, hiển hách. Có thể nói câu thơ cuối bài là những vần thơ chứa đựng hình ảnh đẹp và thiêng liêng nhất cả bài thơ.
Khép lại cả hai bài thơ như khép lại những thăng trầm đã qua của thời kì kháng chiến hào hùng. Với ngòi bút tài hoa, giàu chất lãng mạn, giàu chất nhạc, chất họa với hình ảnh thơ sống động, độc đáo, từ ngữ mộc mạc, giọng thơ gần gũi, hai tác giả đã ca ngợi những con người gặp nhau trên cùng một con đường mang tên cách mạng, tôn vinh tình đồng chí được thắt chặt bằng một sợi dây yêu thương vô hình. Hơn hết, còn là sự vĩnh viễn hóa, bất tử hóa những con người đã góp công khiến cho nước Việt Nam ta “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.
“Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đối xe không kính” thật sự là cuộc sống, là tấc lòng rất thực của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật, là một tượng đài bất tử về hình tượng người lính. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của nhà thơ đối với những người chiến sĩ cách mạng, đối với đất nước của mình. Thời gian có thể phủ bụi một số thứ nhưng có những thứ càng xa rời thời gian càng sáng, càng đẹp. Và cả hai thi phẩm tuyệt bút trên là một minh chứng rõ nét cho điều đó, chiến tranh đã đi qua, đau thương cũng đã khép lại nhưng công lao cao cả của những người lính vẫn được lưu truyền ngàn đời qua bài thơ mặc cho gió bụi thời gian. Hơn hết, đây còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đối với thế hệ sau này, phải biết kính trọng và biết ơn những người đã đổ máu cho màu đỏ tươi của quốc kì được bay phấp phới trên bầu trời tự do, những người mà:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”