Chào mừng bạn đến với Selfomy Hỏi Đáp, hãy Hỏi bài tập hoặc Tham gia ngay
0 phiếu
458 lượt xem
trong Ngữ văn lớp 11 bởi Phamthunhien Tiến sĩ (20.5k điểm)
Cảm hứng đất nước trong đoạn thơ "Đất Nước" (trích trường ca "Mặt đường khát vọng") của Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi.

1 Câu trả lời

0 phiếu
bởi nhthuyvy16 ● Cộng Tác Viên Tiến sĩ (16.5k điểm)
 
Hay nhất

Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng

Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, non sông.

(Chế Lan Viên)

Từ lời thơ của Chế Lan Viên, ta mới nhận ra rằng còn gì thiêng liêng hơn là xả thân mình cho đất nước, còn nghĩa cử nào cao đẹp hơn là khi Tổ quốc vẫy gọi, trái tim ta sẵn sàng ngân vang liên hồi? Chân dung Tổ quốc đã được hiện lên muôn hình vạn trạng dưới những ngòi bút tài hoa của nhiều thi sĩ. Ta đã từng bắt gặp một đất nước rất đỗi dịu dàng, ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi, ta mới thấy một cảm hứng đất nước đầy hào hùng, thi vị. Cảm hứng đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều phương diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thế hệ các nhà thơ mà tài năng và ngòi bút được mài dũa trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước, về dân tộc. Còn cảm hứng đất nước trong ngòi bút Nguyễn Đình Thi là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả. Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước. Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. Từ đó có thể thấy được cảm hứng đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm rất khác so với những nhà thơ khác.

Nguyễn Khoa Điềm đã hấp dẫn người đọc bằng tình yêu dáng hình quê hương xứ sở một cách đầy tha thiết qua thi phẩm tuyệt bút “Đất Nước”.  Đoạn trích nằm ở chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác vào mùa đông năm 1971, tại chiến trường Trị Thiên, thời điểm chống Mĩ quyết liệt tại miền Nam, là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả. Lấy chủ thể trữ tình là “anh và em”, Nguyễn Khoa Điềm đã tổng hợp và toàn vẹn nhất để miêu tả hình dáng xứ sở, tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, hào hùng:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..”

Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có một phương diện riêng của mình về đất nước, Tổ quốc nhưng hầu hết đều chọn những hình ảnh mang tầm vóc kì vĩ, những kì tích lớn lao của dân tộc. Riêng Nguyễn Khoa Điềm, ông lựa chọn một cách diễn đạt khác và đã đưa đất nước từ một khái niệm trừu tượng trở thành một phần rất quen thuộc trong đời sống, trong nhận thức của mỗi người dân qua các chi tiết trong phong tục, truyền thuyết đậm chất văn hóa, văn học dân gian thấm sâu vào tư tưởng, cảm xúc. Có ý kiến cho rằng: “Trong đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người, cũng là cách nhà thơ đi con đường riêng của mình không lặp lại người khác”. Bởi thế, Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể

bởi nhthuyvy16 ● Cộng Tác Viên Tiến sĩ (16.5k điểm)
Tham vọng tìm tuổi Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái "ngày xửa ngày xưa" (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích ) có tính phiếm chỉ, trừu tượng không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại gợi lại không khí xa xưa, sâu thẳm trong truyền thuyết, lịch sử. Từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử của Đất nước Việt Nam. Song, chính những cái "ngày xửa ngày xưa" đó nhà thơ đã giúp chúng ta cảm nhận được: Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết. Chỉ biết rằng: khi ta cất tiếng khóc chào đời thì Đất Nước đã hiện hữu. Đặc biệt, đại từ “ta” được sử dụng không chỉ trong đoạn trích này mà cho toàn bộ chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. “Ta” ý chỉ chủ thể trữ tình hay là đại diện cho cả một thế hệ có ý thức tìm hiểu về cội nguồn, về sự khởi nguyên của đất nước. Bởi vậy, “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi như một lời thơ mang sắc thái khẳng định: giang sơn ngày nay có được là kết quả của công cuộc xây dựng, giữ gìn và bảo vệ trong suốt hơn 4000 năm qua.
Theo cảm xúc của nhà thơ, Đất Nước bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất, bình dị nhất trong đời sống vật chất và tâm hồn của mỗi con người:
          “ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn   
            Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Phải chăng, khởi thủy của Đất Nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng “miếng trầu”, cây tre. Ở đây, hình ảnh "miếng trầu" là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong cổ tích, ca dao, tục ngữ, là phương tiện trong giao tiếp: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sợi tơ duyên kết nối đôi lứa gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ, nghĩa anh em Tân - Lang trọn vẹn. Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân để con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh chung cành
“Miếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy quả thì thương lấy người”
Bên cạnh đó, trong tục cúng lễ, miếng trầu, quả cau còn là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân.
Cùng với tục ăn trầu từ thuở xa xưa lâu đời là lịch sử đất nước vững bền nhờ bụi tre đánh giặc, khóm tre đầu làng giữ cuộc sống bình yên. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm nối tiếp dòng suy tưởng để đến với hình ảnh người dân lao động trên mảnh đất quê hương, chẳng ai khác, là cha, là mẹ, là người cả đời ta kính trọng yêu thương:
            Tóc mẹ thì bới sau đầu
            Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh "tóc mẹ búi sau đầu" - gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt – thanh lịch và thùy mị. Đặc biệt với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất: trong hạt muối, nhánh gừng; đắm sâu trong tình thương mẹ cha qua thành ngữ “gừng cay muối mặn” được chắt lọc một cách đặc sắc từ văn hóa dân gian trong câu thơ trầm tích những ý từ xâu xa mà thấm đượm biết bao ân tình.. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Và để có được tình cảm chân thành bên chặt ấy, cha mẹ thương yêu nhau từ chính những điều giản dị nhất, nhưng đẹp tuyệt. Đó là búi tóc của mẹ sau đầu, chẳng cầu kỳ lộng lẫy, chỉ gọn gàng giản đơn mà ý nhị, toát lên vẻ đẹp sâu trong tâm hồn, chân thực:
"Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh"
bởi nhthuyvy16 ● Cộng Tác Viên Tiến sĩ (16.5k điểm)
Đất Nước còn hiển hiện trong mỗi gia đình, mỗi căn nhà, trong những vật dụng quen thuộc , gắn bó với những gì gần gũi, thân thiết nhất :
            Cái kèo, cái cột thành tên
            Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục  đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời. Đất Nước gắn với cách gọi tên dân dã “cái kèo, cái cột” với ước mơ “an cư, lạc nghiệp”.
Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông kèm theo đó là nỗi vất vả, nặng nhọc để làm ra hạt gạo dẻo thơm trắng trong ấy. Bằng cách hoán dụ "Hạt gạo" cho nền lương thực của nước ta, dân được ăn no mặc ấm, Đất nước mới vững mạnh mà tiến lên cũng như lời tác giả khéo léo truyền đạt đạo lý "uống nước nhớ nguồn" bằng cách tài tình và tinh tế.. Vậy mới thấy, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Trải qua bao biến cố của lịch sử, cuối cùng thì Đất Nước cũng được hình thành và ta có thể nghe tiếng tác giả reo vui :
“Đất Nước có từ ngày đó..."
Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.
Đất Nước còn là chiều rộng không gian địa lí – cách nhìn có lẽ không phải là mới mẻ.
Với Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”
Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.
Đất nước đồng thời là chiều dài thời gian lịch sử:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”
4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.”
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)
Đến:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
Sau này Chế lan Viên viết:
“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó là thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Đó là truyền thuyết về bọc trăm trứng, với nơi chim về, rồng ở, và ngày giỗ Tổ thiêng liêng. Đó là kết quả trước tưởng tượng bay bổng của tâm hồn đầy khát vọng, đẹp một cách gần gũi và mơ mộng, bay bổng và mĩ lệ,…mà dường như trước và sau Nguyễn Khoa Điềm chưa ai nói được như thế.
Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm lên Đất Nước muôn đời…”

Đoạn trích trên thể hiện suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về mối quan hệ riêng - chung, quan hệ cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong một đất nước, một dân tộc. Những suy ngẫm ấy được thể hiện ấy bằng thơ, tức không đơn thuần là tư tưởng, mà chứa đựng cảm xúc, tình cảm của tác giả, do đó rất có sức lay động tâm tư người đọc. Nếu như ở đoạn thơ trước đó trong bài thơ, tác giả nhìn nhận đất nước từ bề dày văn hóa dân tộc hàng nghìn năm qua, thì ở đây lại là những suy nghĩ về đất nước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ riêng - chung, cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lí về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,... Đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước”
Ta bắt gặp một lối xưng hô hết sức nhẹ nhàng và đầy thân thuộc, như hai chủ thể đang thủ thỉ, tâm tình về những thăng trầm của đất nước. “Anh” là nhân vật trữ tình nhà thơ còn “em” là nhân vật tác giả tạo ra để giãi bày tâm sự, hay chăng cũng chính là thế hệ trẻ - đối tượng mà nhà thơ đang hướng tới. Từ ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm biến cái to lớn là đất nước nằm gói gọn trong bản thân bé nhỏ, để từ đó trong cả “anh và em” đều mang theo bên mình “một phần Đất Nước”. Nhà thơ nghĩ về Đất Nước một cách đầy sâu sắc, ông thấm thía công lao của những lớp người đi trước, ý thức được những giá trị vật chất và tinh thần của chúng ta có được ngày hôm nay là nhờ ông cha ta đấu tranh giữ gìn. Bởi lẽ đó mà trong mỗi người đều thừa hưởng “một phần Đất Nước”, Đất Nước hiện lên thật gần gũi, thân thiết, Đất Nước luôn hiện hữu, thường trực trong mỗi con người chúng ta.
bởi nhthuyvy16 ● Cộng Tác Viên Tiến sĩ (16.5k điểm)
Đó là một nhận thức mới về đất nước. Nhận thức ấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác, từ “hai đứa” lan rộng đến “mọi người, từ “hôm nay” kéo dài đến “mai sau”:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
Nếu đoạn trước “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” thì đến đây Đất Nước đã là nơi “hai đứa cầm tay”, một hình ảnh vừa lãng mạn vừa gợi tả sự gắn bó, thân tình của đôi lứa yêu nhau, là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình. “Khi hai đứa cầm tay” có thể cùng nhau dựng xây nên một mái ấm, vun vén nên một gia đình. Gia đình là một tế bào của xã hội, là một phần tử của Đất Nước, chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. “Sự hài hòa, nồng thắm” ấy khắc sâu mối quan hệ hòa hợp, thân ái giữa cái riêng và cái chung, đó cũng chính là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu sắc về nỗi nhớ:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần...”
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết mở rộng ra tình yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước thì mới là một điều đáng quý, và từ đó nhà thơ dang rộng cái cầm tay của hai đứa thành cái cầm tay của mọi người:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
Điệp ngữ “cầm tay” được nhắc lại hai lần thể hiện một tình cảm đẹp, một hành động đẹp. “Khi chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào. Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có thể có được “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới tạo thành khối đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Chỉ khi nào “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao", chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, và chỉ khi nào ”Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng 'Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ được cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi…Đất Nước…/ Khi …Đất Nước…” kết hợp với nghệ thuật tăng tiến “hai đứa cầm tay”, “chúng ta cầm tay mọi người” đi cùng các tính từ từ “hài hòa nồng thắm” đến “vẹn tròn to lớn” diễn đạt nhuần nhị những ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc của tác giả. Phải chăng nhà thơ muốn nhấn mạnh đến sự gắn bó chặt chẽ, sự đồng cảm sẻ chia của mọi người vì cùng mang những nét chung của Đất Nước, vì cùng thừa hưởng những di sản của cha ông. “Từ chân trời của một người đến với chân trời của mọi người” (P. Ê luya), tình yêu chỉ thực sự đẹp khi tình yêu ấy hòa vào tình yêu cộng đồng, nhất là những tháng năm này Nam Bắc đang bị chia cắt hai bờ đau thương thì những cái cầm tay ấy như nối lại dáng hình đất nước. Sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh để dân tộc vượt qua mọi thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù. Cần phải đặt vào hoàn cảnh sáng tác, ta mới hiểu được ý thơ thiêng liêng này. Nguyễn Khoa Điềm viết bản trường ca “Mặt đường khát vọng” trong thời kì chống Mĩ năm 1971, một giai đoạn khói lửa như đốt cháy quê hương. Từ đó, ta thấy được các hình ảnh “hai đứa cầm tay”, “cầm tay mọi người”, đất nước “hài hoà nồng thắm”, “vẹn tròn to lớn” là những hình ảnh ẩn dụ, muốn nhắn nhủ rằng tinh thần đoàn kết toàn dân tộc sẽ làm nên một đất nước thống nhất vẹn toàn, vững mạnh. Như vậy, cá nhân không thể tách rời cộng đồng, số phận cá nhân phải gắn liền với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại.
Từ hiện tại của cuộc chiến đấu ác liệt, khi mà “bom napan dội lửa mái nhà”, khi mà hàng trăm hàng ngàn người phải sống dưới địa đạo, trong mưa bom bão đạn, Nguyễn Khoa Điềm mơ về tương lai như một lời nhắn nhủ, như một kì vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Đất nước không chỉ có đau thương và mất mát của ngày hôm qua và hôm nay mà đất nước còn có những ấm no, tươi đẹp của “mai này”. “Con ta” là thế hệ trẻ, là những lớp người kế thừa, nắm giữ trong tay vận mệnh của đất nước ngày sau. “Con ta lớn lên” chỉ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh trẻ trên hành trình đi tới ngày mai tươi sáng, một tương lai rực rỡ, huy hoàng. Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước ông cha "Gánh vác phần người đi trước để lại”, xây dựng đất nước ta "Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ Chí Minh) để rồi chúng sẽ “mang Đất Nước đi xa” và “Đến những tháng ngày mơ mộng”. Các cụm từ đó như phác họa hình ảnh Đất Nước huy hoàng, phồn vinh, thịnh vượng ở tương lai, biểu thị sự kì vọng lớn lao vào tài, đức củ thế hệ trẻ Việt Nam. Giữa những bom rơi đạn lạc nhúng chìm đất nước, ánh nhìn của nhà thơ vẫn tràn đầy niềm tin, lòng khát khao chiến thắng khi nghĩ đến ngày mai. Điều đó chứng tỏ mưa bom bão đạn của kẻ thù có thể vùi lấp được “ngôi nhà, ngọn núi, con sông” nhưng không dập tắt được khát vọng và niềm tin của con người Việt Nam, “xiềng xích chúng bay không khóa được” ước mơ cao cả của mỗi công dân Việt Nam. Đó là một trong những yếu tố quan trọng giúp Đất Nước đi tới thành công.
Và khi cảm xúc đã dâng lên thành cao trào, bốn câu thơ cuối đoạn giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Một tiếng kêu đầy trìu mến, ngọt ngào bống vang lên: “Em ơi em” khiến cho giọng điệu thơ giàu chất chính luận, chất trí tuệ mà vẫn trữ tình, tha thiết. Nhà thơ ví Đất Nước như là “máu xương” của mỗi người, một phép so sánh đầy sức liên tưởng đến một điều gì đó rất đỗi thiêng liêng và cao cả. “Máu xương” là sự sống, “Đất Nước là máu xương” có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho Tổ quốc đứng lên vững vàng. Điệp ngữ “Phải biết” xuất hiện có ý nghĩa như một lời xác định trách nhiệm cụ thể của thế hệ trẻ, thế hệ tương lai, thế hệ vững bước nối tiếp truyền thống. Đó là “gắn bó”, “san sẻ” và “hóa thân”, những động từ theo hình thức liệt có sức gợi rất lớn, khiến mỗi con người phải trăn trở, suy ngẫm. Bởi lẽ, “gắn bó” là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, không sợ khó, sợ khổ, dám cùng nhân dân đứng lên chống kẻ thù. “San sẻ” nhắc ta biết chia ngọt sẻ bùi, biết sống chan hòa, biết gánh vác trách nhiệm của một công dân đối với Đất Nước. Riêng từ “hoá thân” có nghĩa là biến đi rồi hiện lại thành một người hoặc một vật cụ thể khác nào đó. Ở đây, sự “hóa thân” của mỗi con người làm nên “dáng hình xứ sở”, sự trường tồn vĩnh cửu của Đất Nước khiến ý nghĩa của từ này còn sâu sắc và cao cả hơn từ “hi sinh”.
Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. “Hóa thân” cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc “hóa thân” để làm nên “Đất Nước muôn đời”, một tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương, đất nước. Ý thơ gợi nhớ đến bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân một thời đã in dấu một hình tượng đẹp, sáng ngời lòng yêu nước, xả thân vì lí tưởng, chiến đấu quên mình :
“Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ
Anh là chiến sĩ giải phóng quân
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:

Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.

Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:

"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:

Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
bởi nhthuyvy16 ● Cộng Tác Viên Tiến sĩ (16.5k điểm)
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo.
Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống dân tộc đều do nhân dân tạo ra và giữ truyền đồng thời khẳng định tư tưởng lớn của thời đại: “Đất nước của nhân dân”:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Mở đầu đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tự hào với những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần mà nhân dân tự sáng tạo, gìn giữ và lưu truyền cho đời sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ co người sau trồng cây hái trái”
Nước chúng ta là một nước nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời nên vẻ đẹp văn hóa đầu tiên mà nhà thơ hướng đến là truyền thống giữ truyền hạt lúa qua bao đời. Câu thơ vừa có nghĩa cụ thể vừa mang nghĩa khái quát. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân ta giữ hạt lúa cho đời sau và truyền lại như một điều kiện cơ bản để dân tộc tồn tại và phát triển. Dù trải qua bao cuộc nạn đói hủy diệt, nhân dân ta vẫn kiên quyết giữ được hạt lúa cho đời sau, giữ gìn nền văn minh biểu trưng cho cả một dân tộc, đó là vẻ đẹp đáng cơ ngợi nhất.
Đi liền với truyền và giữ hạt lúa để cho dân tộc sinh tồn là sự “chuyền lửa” từ đời này qua đời khác. Từ trong những đêm mờ xa xôi của lịch sử, ông cha ta vẫn biết cách bê rơm con cúi để truyền lửa “qua mỗi nhà”, đó là một sự sáng tạo không chỉ để duy trì bếp lửa của mỗi gia đình mà còn để làm vũ khí lợi hại trong việc chống giặc. Nguyễn Đình Chiểu đã từng ca ngợi ngọn lửa này: “Lửa rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kìa”. Nhìn qua thì đó là một cách chuyền lả thủ công đờn giàn nhưng để truyền lửa qua thời gian đằng đẵng là một sự kiện quan trọng của nhân dân ta. Từ “lửa” ở đây còn được hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: ngọn lửa duy trì sự sống và cũng là ngọn lửa văn hóa, truyền thống dân tộc. Bởi lẽ đó, giữ gìn “lửa” là giữ gìn bản sắc tinh hoa văn hóa dân tộc, một điều khiến Nguyễn Khoa Điềm rất trân trọng và biết ơn nhân dân.
Một nét đẹp văn hóa khác mà khi nói về một đất nước nào đó thường được đề cập đầu tiên đó là ngôn ngữ giọng điệu của dân tộc. Quá trình lịch sử của dân tộc ta là một quá trình vận động di dân từ đất Tổ Hùng Vương đến đất mũi Cà Mau. Trong “mỗi chuyến di dân” đó, giọng điệu và tiếng nói của dân tộc không hề bị thay đổi bởi họ đã “gánh theo tên xã, tên làng”, đó là một ý thức dân tộc cao độ, còn tiếng nói là còn đất nước Tổ quốc. Hình ảnh “truyền giọng điệu cho con mình tập nói” là một hình ảnh không chỉ đẹp đẽ mà còn rất cao cả. Nó tỏa sáng thiêng liêng từ những điều bình dị, thường nhật. Bởi lẽ mặc cho ngoài kia bom dội bom rơi, mặc cho bao cuộc xâm lăng, hủy diệt, mặc cho bao âm mưu đồng hóa, nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói giống nòi, đó là điều rất đáng để ta cúi mình trân quý.
Ngoài nhưng vẻ đẹp văn hóa rất dễ nhìn thấy trên, thi nhân cũng hướng đến một vẻ đẹp văn hóa khác, đó là vẻ đẹp của đạo lý dân tộc. Một hình ảnh cũng rất đẹp và cao cả khác đã xuất hiện, đó chính là khi thế hệ trước “đắp đập be bờ” cho thế hệ sau “trồng cây hái trái”. “Họ” chỉ cần biết chúng ta là người chung một nước thì chúng ta chính là một đại gia đình vì thế đời trước đã dốc sức cải tạo để củng cố cho đời sau. Có lẽ dân tộc ta trường tồn một cách mạnh mẽ cũng bắt đầu từ cái đạo lý luôn vì thế hệ sau trong suốt tầng tầng lớp lớp bốn nghìn năm lịch sử. Chỉ trong năm câu thơ ngắn ngủi nhưng bằng các phép liệt kê kết hợp với điệp đại từ “họ” và nhiều động từ liên tiếp “giữ, truyền, chuyền, gánh, đắp đập…”, nhà thơ đã tôn vinh nhân dân và cụ thể hóa những việc làm thiết thực, lớn lao của nhân dân, họ đã giữ gìn vẹn nguyên những tinh hoa văn hóa bản sắc dân tộc để lại cho con cháu muôn đời.
Và khi nói về văn hóa, nhà thơ không quên nói về một yếu tố để lưu giữ văn hóa ngàn đời, đó là truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù:
“Có ngoại xâm thì đánh ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.”
Đây là một vẻ đẹp của hiện thực lịch sử, một vẻ đẹp bất tử không thể chối cãi đã được lưu giữ trong sử sách. Qua bao cuộc xâm lăng của ngoại xâm và bao cuộc phản quốc của nội thù, dân tộc ta đều kiên cường bất khuất chống trả mà chưa bao giờ chịu khuất phục. Vẻ đẹp này là tiền đề cho văn hóa, nuôi dưỡng và lưu giữ văn hóa. Mọi kẻ thù đều bị đánh bại và tất cả những giá trị văn hóa tươi đẹp này sẽ được truyền giữ và phát triển ngàn đời.
Nói đến văn hóa là nói đến văn hóa vật thể lẫn phi vật thể và Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn thơ này đã chú ý trân trọng đến cả hai. Tác giả không chỉ khẳng định sự tồn tại của văn hóa mà còn khẳng định người làm nền văn hóa ấy là nhân dân. Vì thế sau khi đề cập đến hình ảnh địa lý, lịch sử, văn hóa mang tính nhân dân, nhà thơ đã nhấn mạnh chính nhân dân làm ra Đất Nước vậy nên Đất Nước là của nhân dân:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, ông hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. “Nhân Dân” là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra định nghĩa về đất nước vừa giản dị, vừa độc đáo.
Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng đất nước của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, nhà thơ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”, nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời, là nghĩ suy chân thật. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là một phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay, nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây, tác giả ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết” sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải  “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.
Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Đó còn là hình ảnh “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc bảo vệ non sông, kiên cường cho cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước của dân tộc. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây… Nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng. Và chính Nhân Dân là những người “Dạy anh biết” kiên cường, bất khuất, tiếp thêm sức mạnh cho anh đứng dậy đấu tranh cho Đất Nước.
Sau khi diễn giải, Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng thông điệp: chính nhân dân là người đã mang lại vẻ đẹp muôn màu và kì diệu cho hồn sông hồn núi quê hương.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
bởi nhthuyvy16 ● Cộng Tác Viên Tiến sĩ (16.5k điểm)
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông văn hóa, dòng sông lịch sử. Đất nước ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc. Tác giả không chỉ gợi dáng sông mà còn gợi cả hồn thiêng sông nước của dân tộc. Mỗi dòng sông sẽ mang trong mình một đời sống văn hóa tinh thần phong phú của dân tộc mà biểu hiện cụ thể chính là “câu hát”. Sông không biết hát thế nhưng, hồn sông chính là những câu hát thiêng liêng. Tiếng hát của Nguyễn Khoa Điềm cất lên trong thời gian khó bởi cuộc chiến tranh chống Mỹ chưa thành, nhưng lịch sử luôn như dòng nước chảy xuôi, vấn đề là con người “biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Bởi lẽ đó, chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn nền độc lập nước nhà để phát huy sự phong phú, giàu có của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi,
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha...

Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.
Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khó rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:

Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta...

Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.

Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...

Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.

Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.

Nguyễn Đình Thi hình như chờ cho lịch sử viết xong thiên sử thi của dân tộc mình, rồi mới theo đó mà viết nốt phần thứ hai này. Có lẽ vì vậy mà dù thiên về xây dựng những hình ảnh có tính biểu tượng khái quát, lời thơ vẫn âm vang những tiếng vọng của cuộc sống hào hùng của một đất nước chiến đấu và chiến thắng, ơ đó, có âm vang của phong trào phát động quần chúng trong cải cách ruộng đất:

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn

Có âm vang nhịp bước vào công - nông - binh "liên minh" kháng chiến:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Nhưng nếu như những biểu tượng khái quát trên đây chỉ được xây dựng bằng cảm quan lịch sử, bằng sự kiện thì Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã không làm xôn xao lòng người đến thế. Rất nhiều những biểu tượng đã kết tinh từ những kĩ niệm riêng, từ chính quan sát, trải nghiệm của một nghệ sĩ từng sống lăn lộn trong kháng chiến. Cho nên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi có nhiều khổ, nhiều dòng lấp lánh cái chất sống của nhà thơ và của nhân dân.

Khi ông viết:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Thì ta hiểu đó là nỗi đau chung quyện vào những nỗi đau riêng, và nỗi đau ấy nung nấu thêm vì một nỗi nhớ xao xuyến chay lòng. Trong đó có kỉ niệm về một buổi chiều hành quân ở Bắc Giang: Nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc hằn lên như cào cấu "đâm nát trời chiều".

Ráng chiều đỏ bầm lại, rãnh cày đồng quê như "chảy máu". Những chi tiết rất thực, rất sống sít ấy đã vào thơ và trở thành biểu tượng đau thương của đất nước trong kháng chiến chống Pháp. Đó không còn là hình ảnh của một thời mà là hình ảnh của mọi thời giặc giã, không còn là hình ảnh của một vùng quê Bắc Giang mà hiển thân của mọi vùng quê, mọi đất nước dưới gót giày quân xâm lược.

Những hình ảnh đau thương quặn lòng ấy sẽ còn "nung nấu" những "đêm dài hành quân" nhưng cũng từ miền đau thương sâu thẳm ấy, mọc lên những ngôi sao thương nhớ lấp lánh, thao thức bồn chồn. Đó là ánh mắt "người yêu" là nỗi nhớ bồn chồn và cũng chính là sự thôi thúc, là niềm tin.

Trong thơ Nguyễn Đình Thi, nỗi "nhớ mắt người yêu" như nhớ một ánh sao lấp lánh ấy thường trở đi trở lại nhiều lần (Trong Bài thơ viết cạnh đồn Tây: "Nhớ em đôi mắt hay cười", Trong Em bảo anh: "Tia lửa nơi ta bay lên cao - Trong mắt người yêu thành trời sao", trong Nhớ: "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh - Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây"...)
Nhưng đặc biệt ở "Đất nước", "Mắt người yêu" gợi một nỗi nhớ lớn lao sâu thẳm, vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, vượt lên trên nỗi nhớ người yêu. Bởi thứ ánh sáng bất chợt bừng lên trong tâm hồn ấy có cả nỗi đau, nỗi nhớ, có cả buồn vui, cả tin yêu hy vọng, cả riêng và chung. Bài thơ khép lại bằng một cảnh tượng hào hùng, tráng lệ:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Cảnh tượng vĩ đại này cũng là một biểu tượng khái quát về sự lớn mạnh quật cường của đất nước từ trong đau thương gian khổ. Nhưng đó là một bức tranh sống động. Cảm hứng hiện thực lấy từ chiến thắng Điện Biên Phủ: Đoàn quân "áo vải", "đứng lên thành những anh hùng" phất cao cờ chiến thắng trên nóc hầm viên tướng bại trận Đờ Caxtơri chiều mùng 7 tháng 5 lịch sử.

Cảnh tượng đó đã được nhiều nhà quay phim, chụp ảnh ghi lại, nhưng hiếm có ở đâu gợi cho ta thật nhiều ấn tượng như ở đây, có cái gì rung chuyển như một cơn trở dạ vĩ đại của trời đất, của lịch sử. Trước mắt ta lồng lộng, chói lòa một "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy..." Đó là cái "rũ bùn đứng dậy" của Phù Đổng Thiên Vương thời đánh Pháp.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:

Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần

(Nhớ)
Khép lại dòng cảm xúc dâng trào của nhà thơ nhưng lại mở ra niềm tự hào dân tộc cuồn cuộn trong lòng người đọc. Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi thật sự đã thành công khi chỉ sử dụng những dòng thơ đơn thuần, bình dị mà đã có thể khơi gợi trong ta một tinh thần yêu nước dạt dào. Với giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm như lời thủ thỉ tâm tình, thi sĩ đưa người đọc về những thăng trầm đã qua của Đất Nước, để ta sống dậy với những hào hùng lịch sử bằng những biện pháp tu từ tài hoa, lối sử dụng từ ngữ hợp lí, tinh tế. Cả hai nhà thơ đã kết hợp các đặc sắc nghệ thuật như kho tàng tri thức, sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đằm thắm để ta thêm thấu hiểu sâu sắc những giá trị văn hóa tươi đẹp của Đất Nước. Những vần thơ như một con đò nhỏ và nhà thơ như sắm vai một người lái đò đưa ta trở lại dòng sông kí ức về những năm tháng khói lửa của quê hương, để ta thêm yêu thương, thêm trân quý, thêm biết ơn, để ta ghi lòng tạc dạ trách nhiệm của bản thân đối với Đất Nước dù ở thời bình hay thời chiến.
Văn thơ chỉ tìm đến bến neo đậu nơi lòng người khi đó là những vần thơ cất lên từ tiếng lòng chân thật, bình dị nhất. Và hai thi sĩ đã tạc nên dáng hình giang sơn đất nước rất đỗi hào hùng vào trái tim mỗi con người Việt Nam khi đọc đoạn thơ này. Câu chuyện về đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết, và xin hãy luôn kể về câu chuyện ý nghĩa này cho những thế hệ mai sau với một niềm kiêu hãnh, đầy tự hào như thế hệ cha ông đã làm. Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng cho lớp thế hệ trẻ về ý thức trách nhiệm làm rạng danh Đất Nước, phải sống để tô điểm thêm cho Đất Nước những vết son chói lọi để cho Đất Nước mãi trường tồn, lớn mạnh, sống như một “cuộc hóa thân”:
“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
(Bài hát“Tự nguyện”-Trương Quốc Khánh )

Các câu hỏi liên quan

0 phiếu
1 trả lời 1.0k lượt xem
Quan niệm của cụ Nguyễn Du về mẫu anh hùng lí tưởng trong xã hội phong kiến được thể hiện như thế nào qua 14 câu thơ cuối bài "Chí khí anh hùng".
đã hỏi 23 tháng 4, 2022 trong Ngữ văn lớp 10 bởi Khách
0 phiếu
1 trả lời 306 lượt xem
Phân tích hình ảnh người lính trong 2 đoạn thơ sau của tác phẩm "Đồng chí" và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" Đ ... ;t, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Ngữ văn 9 tập 1)
đã hỏi 30 tháng 6, 2020 trong Ngữ văn lớp 9 bởi hoangvy Cử nhân (3.7k điểm)
0 phiếu
3 câu trả lời 497 lượt xem
Phân tích khổ thơ 4,5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để thấy được khát vọng cống hiến của nhà thơ dành cho cuộc đời.
đã hỏi 25 tháng 4, 2022 trong Ngữ văn lớp 9 bởi Khách
0 phiếu
2 câu trả lời 453 lượt xem
Phân tích khổ thơ 2,3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để thấy được mùa xuân của sản xuất và lao động.  
đã hỏi 25 tháng 4, 2022 trong Ngữ văn lớp 9 bởi Khách
0 phiếu
1 trả lời 464 lượt xem
0 phiếu
2 câu trả lời 375 lượt xem
Hãy làm một bài thơ lục bát về quê hương. *Yêu cầu: ít nhất một cặp lục bát.*
đã hỏi 12 tháng 1, 2022 trong Khác bởi MT718 Cử nhân (2.1k điểm)
0 phiếu
1 trả lời 472 lượt xem
Nhận định về bài thơ Tràng giang của Huy Cận, có ý kiến cho rằng: đó là nỗi sầu vạn kỉ. Ý kiến khác thì nhấn mạnh ... ; sông Bạch Đằng- Trương Hán Siêu, Ngữ văn 10, tập 2).
đã hỏi 14 tháng 4, 2020 trong Ngữ văn lớp 11 bởi Phamthunhien Tiến sĩ (20.5k điểm)
0 phiếu
1 trả lời 710 lượt xem
Em hãy nêu cảm nhận về 9 câu thơ cuối bài "Vội vàng".
đã hỏi 25 tháng 4, 2022 trong Ngữ văn lớp 11 bởi Khách
0 phiếu
1 trả lời 761 lượt xem
Phân tích 16 câu thơ giữa bài "Vội vàng" để làm rõ cảm nhận độc đáo của Xuân Diệu về thời gian. 
đã hỏi 25 tháng 4, 2022 trong Ngữ văn lớp 11 bởi Khách
  1. Darling_274

    20 Điểm

  2. minhquanhhqt160

    15 Điểm

  3. lueyuri009730

    15 Điểm

  4. lenguyenducminh05102011227

    5 Điểm

Phần thưởng hằng tháng
Hạng 1: 200.000 đồng
Hạng 2: 100.000 đồng
Hạng 3: 50.000 đồng
Hạng 4: 20.000 đồng
Phần thưởng bao gồm: mã giảm giá Shopee, Nhà Sách Phương Nam, thẻ cào cùng nhiều phần quà hấp dẫn khác sẽ dành cho những bạn tích cực nhất của tháng. Xem tại đây
Bảng xếp hạng cập nhật 30 phút một lần
...