I. MỞ BÀI
“Có một bài ca không bao giờ quên…”
Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến bảo vệ Tổ quốc dưới mưa bom bão đạn khắc nghiệt từ quân đội Mĩ, khi hàng hàng lớp lớp thế hệ thanh niên ra đi xẻ dọc Trường Sơn cứu nước. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã khắc họa một cách vĩnh cửu vào tâm hồn người đọc hình ảnh những con người anh hùng đã ngã xuống cho Tổ quốc đứng lên. Nổi bật trong số đó phải kể đến “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhắc đến Phạm Tiến Duật là nhắc đến ngòi bút được mài dũa sắc sảo trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, một hồn thơ giàu chất liệu hiện thực, giọng điệu ngang tàn, sôi nổi của trái tim trẻ yêu nước. Hạ bút viết “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – trích tập “Vầng trăng – Quầng lửa” vào giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, nhà thơ đã khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
…
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
II. THÂN BÀI
1. Giải thích nhan đề:
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực dời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
2. “Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
- “không có kính không phải vì xe không có kính”: câu lí giải rằng vốn dĩ từ đầu có kính chứ không phải không có.
- “bom giật, bom rung”: một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của địch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh.
→ nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính.
→ nét tinh nghịch, ngang tàn trong cách nhìn sự vật của người cầm bút.
3. “Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
- “ung dung”: từ láy + đảo ngữ gợi sự thong thả, tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ.
- phép điệp “nhìn”: làm câu thơ thêm phần nhạc điệu, bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn gạt bỏ hiểm nguy mà tiến về tương lai.
→ Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
4. “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”
- người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim”, “sao trời”,“cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình.
- “Nhìn thấy”: điệp ngữ tô thêm những hiểm nguy dồn dập luôn trực chờ ập tới người lính.
→ sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực.