“Có một bài ca không bao giờ quên…”
Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Vậy là tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã khắc họa một cách vĩnh cửu vào tâm hồn người đọc hình ảnh những con người anh hùng đã ngã xuống cho Tổ quốc đứng lên. Nổi bật trong số đó phải kể đến bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu. Nhắc đến Chính Hữu là nhắc đến ngòi bút được mài dũa sắc sảo trong thời kì kháng chiến chống Pháp, một nhà thơ gắn liền với phong cách bình dị, mộc mạc. Hạ bút viết “Đồng chí” vào mùa xuân năm 1948 sau khi cùng đồng đội chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (Thu – Đông năm 1947), Chính Hữu đã khiến cho tác phẩm trở thành một bản hùng ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954. Bài thơ tôn vinh tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!"
Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. “Anh” và “tôi”, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Họ đều là những người xuất thân từ những nơi “nước mặn, đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Những hình ảnh gợi ra những ruộng đồng không nặng phù sa mà lại nhiễm mặn, khó có thể cày cấy, khiến người nông dân luôn cực khổ, nhọc nhằn. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ lau, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
“Anh với tôi đôi người xa lạ,
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Không phân biệt xuất thân, lai lịch, chỉ cần mang chung một lí tưởng vĩ đại vì màu cờ sắc áo, họ từ “xa lạ” đã trở thành “quen nhau”. Họ đến với cách mạng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời, vì lí tưởng: “Sổng là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào. Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí !”
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp cấu trúc tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Một hình ảnh rất đẹp, rất đỗi hào hùng “súng bên súng” mà cũng rất đỗi nên thơ “đầu sát bên đầu”. Ở đây là sự gắn kết keo sơn giữa những con người cùng mang trên mình những trọng trách thiêng liêng đối với Tổ quốc. Đẹp hơn hết còn là hình ảnh “rét chung chăn”, tuy thiếu thốn vật chất nhưng họ không hề thiếu tinh thần và tình cảm. Họ chia nhau từng mảnh chăn nhỏ để cứu rét, để sưởi ấm cho nhau. Để rồi từ xa lạ họ đã trở thành “tri kỉ”, “đồng chí”. Những người tri kỉ có cùng khát vọng nối liền dải hình non sông gấm vóc, có cùng ước mơ xóa mờ đi nỗi đau áp bức của chiến tranh. Câu thơ chỉ có hai tiếng “Đồng chí!” nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người, phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận.