Văn chương là kết tinh từ vẻ đẹp của nhiều thứ trong cuộc sống. Và sự kết hợp của vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người luôn là nguồn cảm hứng dạt dào trong địa hạt thi ca. Ta đã từng bắt gặp chiều sương lay động lòng người ở Châu Mộc qua lời thơ của Quang Dũng trong “Tây Tiến”, cũng đã từng rung cảm trước một Việt Bắc thơ mộng, thấm đẫm tình người hiện lên trong những vần thơ của Tố Hữu trong bài thơ cùng tên. Cùng viết về đề tài thiên nhiên và con người, hai tác giả đã có hai cách khai thác độc đáo, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc qua hai khổ thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
(Tây Tiến - Quang Dũng - Ngữ văn 12, Tập một)
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
(Việt Bắc - Tố Hữu - Ngữ Văn 12, Tập một)
Trước hết, ta hãy đến với những hồi ức tuyệt vời của Quang Dũng ở mảnh đất Tây Bắc. Nơi đây không chỉ là miền đất của kháng chiến đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, mà còn là nơi hiện hữu của thiên nhiên thơ mộng trữ tình. Trong đoạn hai của bài thơ Tây Tiến, chiều sương trên cao nguyên Châu Mộc được tác giả khắc hoạ đầy tài hoa, có sắc màu điểm tô, có đường nét tinh tế:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Trong cuốn phim tua chậm về miền kí ức, Quang Dũng thấy nhớ về một “chiều sương ấy” – một khoảng thời gian không xác định được nhưng vẫn luôn khắc sâu trong tiềm thức của nhà thơ. Hồi ức ùa về với sự mơ hồ, huyền ảo của hình ảnh “hồn lau nẻo bến bờ”. Không những thiên nhiên hiện lên mờ ảo mà con người xuất hiện cũng không kém phần bí ẩn, mê hoặc qua cụm “dáng người trên độc mộc”. Dường như cái “hồn” và cái “bóng” trong không gian ấy đều mờ nhạt, tạo nên cảm thức hoang sơ, cô quạnh. Cấu trúc tu từ “có thấy”, “có nhớ” càng nhấn mạnh sự nhớ nhung da diết, khắc khoải. Quang Dũng khi đặt bút viết bài thơ này đã lấy cảm hứng chủ đạo là nỗi niềm nhớ thương về đồng đội cho nên ở bất kì câu thơ nào cũng thấy tình cảm dâng trào bộc ra thành lời thơ. Theo cảm xúc mơ hồ của những dòng thơ ấy, ta thấy nổi lên một hình ảnh “hoa đong đưa” thật đẹp và gợi hình. Câu thơ cuối đoạn cất lên như một thước phim nhẹ nhàng trôi. Cả thiên nhiên và con người đều lặng lẽ như bông hoa trôi đơn chiếc. Cả đoạn thơ nhuốm một vẻ buồn của tâm trạng, phải chăng giữa mênh mang nỗi nhớ niềm yêu, giữa những hồi ức đẹp đẽ gian khổ mà hào hùng, anh dũng mà tài hoa, lòng Quang Dũng bỗng dưng cảm thấy cô đơn, buồn bã khi chợt hiểu ra rằng tất cả đều đã chìm sâu trong quá khứ.
Tạm gác lại nỗi buồn man mác ấy, ta hãy đến với một nỗi nhớ da diết không kém dành cho Việt Bắc qua đoạn thơ của Tố Hữu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân: không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết.Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian : vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm.
Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Nỗi nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản làng, những mái nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. Hình ảnh khói sương là đặc điểm của cuộc sống Việt Bắc, vừa là khói sương của thiên nhiên, đồng thời như là hơi ấm của tình đời, tình người toả ra. Có hình ảnh của ai đó đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức (cứ như cảnh vợ chờ cơm chồng). Quan hệ giữa cán bộ và nhân dân dường như tụ họp ở ngọn lửa bất diệt thiêng liêng ấy.
Khép lại hai đoạn thơ đầy cảm xúc nhớ nhung mãnh liệt, ta thấy cả hai đoạn đều có những cái hay riêng, những nét rung động riêng. Mỗi nhà thơ đều vận dụng các biện pháp nghệ thuật tài tình để thể hiện tình thương và nỗi nhớ vô tận của mình dành cho mảnh đất kháng chiến từng gắn bó một thời. Thiên nhiên và con người đều là những kỉ niệm đẹp mà không dễ gì ta có thể quên được. Để có thể viết những dòng thơ cảm xúc đến vậy, chắc hẳn Quang Dũng và Tố Hữu đều yêu thương chiến khu của mình như quê hương thứ hai của họ, nơi họ được sinh ra một lần nữa trong đời.