"Đây mùa thu tới" là một trong những bài thơ viết về mùa thu nổi tiếng nhất của Thơ mới và của thi ca Việt Nam nói chung. Bài thơ được in trong tập Thơ Thơ (1938), tập thơ đầu tiên của Xuân Diệu. Với tập thơ này, ngay lập tức tên tuổi Xuân Diệu vang dội khắp đất nước và Thơ mới đã khẳng định hoàn toàn khả năng thay thế thơ cũ (thơ có niêm luật) trên thi đàn Việt. "Đây mùa thu tới" thể hiện sự cách tân vượt bậc nghệ thuật thơ. Tấm lòng rộng mở trước thiên nhiên tươi đẹp, sự ngưỡng mộ, cũng như khả năng quan sát tinh tế, thấu đáo của Xuân Diệu đều được thể hiện rõ trong cảm xúc trước mùa thu này. Bài thơ được chia thành ba khổ, mỗi khổ đều có một hình ảnh trung tâm và cũng đều bộc lộ sự tinh tế của Xuân Diệu khi cảm nhận sự thay đổi của vạn vật trong từng khoảnh khắc thời gian. Âm hưởng chung của bài thơ là vừa diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng, thầm vui khi thu về và đồng thời bộc lộ nỗi buồn man mác trước sự đổi thay của đất trời, của cái đẹp chợt đến đã vội tàn.
Mùa thu là mùa của thi ca và cũng là mùa của bất kì loại hình nghệ thuật nào. Từ hoạ phẩm Mùa thu vàng rực lá của Lê-vi-tan đến nhạc phẩm Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong và thi phẩm Tiếng thu của Lưu Trọng Lư... mùa thu luôn hiện diện, là nguồn cảm hứng vĩnh viễn không hề vơi cạn của bất kì một tâm hồn nghệ sĩ nào. Dựa vào ý thơ của A-pô-li-ne, Phạm Duy đã viết nên nhạc phẩm thu bất tử:
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi.
Với văn chương, mùa thu là mảnh đất riêng của thơ. Văn xuôi cũng miêu tả mùa thu, khai thác mùa thu cho những mục đích thẩm mĩ nhưng do đặc trưng mùa thu là mùa cảm xúc nên các áng văn xuôi dù dụng công đến mấy cũng không thể có được thành tựu bằng thơ. Tiếng xào xạc của lá, dáng vẻ ngơ ngác của chú nai dè dặt đặt chân lên thảm lá vàng rơi rụng, ấy là thu:
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Trong tiến trình văn học Việt Nam, điểm gặp gỡ sâu nặng, bền vững nhất giữa trời thu và hồn thu trong văn chương là giai đoạn 1932-1945. Lịch sử nô lệ của dân tộc thời kì này đã khảm trong hồn các thi nhân màu thương nhớ, màu tiếc nuối, màu u sầu. đấy là các gam màu thu được cảm nhận qua tâm hồn một thế hệ vàng trong thi ca Việt. Thâm Tâm trong Tống biệt hành tiễn đưa người trong sắc vàng của nắng thu khi mùa thu vừa chớm (Trời chưa mùa thu tươi lắm thay):
Nắng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
Hay là Bích Khê diễn tả thu trong sắc lá vàng rơi:
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Cũng là sắc vàng thu, nhưng Anh Thơ không chọn màu của lá, của hoa cúc mà là màu vàng của hoa mướp - loài hoa bình dị chốn làng quê:
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay.
Nguyễn Bính thì trống tênh thu trong “Một trời quan tài”:
Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa
Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
Váng vất thôn sâu rộn tiếng gà
Đành rằng một trong những đề tài lớn của thi phái lãng mạn là thiên nhiên bao gồm đủ cả bốn mùa và vạn vật cây cỏ, nhưng với các nhà lãng mạn bậc thầy Việt Nam, thu luôn là phạm vi chiếm ưu thế. Bởi lẽ họ có thể đọc trong thu nỗi xao xuyến lúc giao mùa, đọc trong thu sự tiếc nuối; đọc trong thu bản hoà tấu vĩ đại của hạ - thu - đông, của khoảnh khắc cái đẹp đột ngột hiện ra rồi vội tan biến trong cái xứ sở nóng ẩm nhiệt đới gió mùa.
Ở Việt Nam, do địa hình địa lí qui định nên ba miền Bắc - Trung - Nam có những hình thái thời tiết khác nhau. Miền Nam và miền Trung hầu như không có mùa thu. Nơi đó, ngay sau cái nắng khủng khiếp của mùa hè là mưa bão, và lũ xuất hiện, nhấn chìm mọi cái nóng, mọi sự lãng mạn trong thực tế hủy diệt khủng khiếp. Chỉ riêng ở miền Bắc mới có mùa thu. Nhưng mùa thu ngắn lắm. Ngay cả khi Nguyên Sa đối sánh mùa thu dài với tóc ngắn của cô nàng chốn áo lụa Hà Đông thì không vì thế mùa thu Hà thành lại có thể dài hơn:
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh.
Sự ngắn ngủi của thu trong thực tế, rõ ràng sẽ gieo nỗi tiếc nuối vấn vương trong lòng người yêu cái đẹp. Thu đương tới, nghĩa là thu đương qua, có thể diễn tả như thế về sự ngắn ngủi, mong manh của thu như cách Xuân Diệu viết về xuân. Sự tiếc nuối ấy cộng hưởng với tâm thế của người dân mất nước, tạo cho thu Việt thêm bao tâm sự vấn vương.
Vậy nên, thu vẫn mãi là niềm day dứt khôn nguôi trong hồn thi sĩ. Chỉ có điều những biểu tượng, những hình ảnh đặc sắc về thu ở Việt Nam không nhiều. Có hề gì, các thi nhân sẽ vay mượn. Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã mượn sắc lá phong:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Việt Nam không có phong thì làm gì có rừng để hoạ bức tranh thu? Phong chỉ mọc ở xứ lạnh, Trung Quốc và phương Tây có rất nhiều phong và sắc phong vàng trở thành biểu tượng của mùa thu như hoa anh đào trắng, hồng biểu tượng cho mùa xuân ở Nhật Bản. Nguyễn Du bằng cách vay mượn đã tăng thêm sắc màu thu cho thơ Việt.