Câu 1: Nêu những ích lợi của việc nuôi ong.
Ong đi hút mật, lấy phấn hoa làm cho hạt phấn từ cây này dính vào đầu nhụy nhiều hơn làm cho việc thụ phấn diễn ra nhanh hơn và năng suất cao hơn. Đồng thời mật từ ong cũng có giá trị về mặt dinh dưỡng và kinh tế cao, có thể dùng ong để vừa giúp cây đạt năng suất cao, vừa thu được mật lợi về mặt kinh tế. Ngoài ra, ong còn giúp con người tiêu diệt một số loại côn trùng có hại.
Câu 2: Con người giúp hoa thụ phấn trong những trường hợp nào?
- Tăng khả năng thụ phấn của cây khi sự thụ phấn tự nhiên kém hiệu quả. Một số nông dân khi trồng bí ngô thường thụ phấn bổ sung để tăng khả năng kết trái của cây.
- Thụ phấn chéo nhằm tránh thoái hóa giống hay để lai tạo nên giống mới có nhiều ưu điểm hơn. Ví dụ như người trồng ngô thường thụ phấn chéo để tránh thoái hóa giống và tăng năng suất (tăng khả năng tạo hạt) bằng cách dùng bao giấy cuộn lại thành hình chiếc phễu, sau đó vít ngọn cây ngô xuống lắc cho hạt phấn rơi vào phễu . Khi đã có hạt phấn rồi thì tiến hành thụ phấn chéo cho cây bằng cách lấy hạt phấn của cây này rắc lên hoa (râu ngô) của cây kia.
Câu 3: Nêu những cách phát tán của quả và hạt (đặc điểm, cách thức, ví dụ).
- Qủa và hạt có 4 cách phát tán: tự phát tán, phát tán nhờ gió và phát tán nhờ động vật:
+ Những quả và tự phát tán thường có đặc điểm tự tách hoặc mở ra để cho hạt ra ngoài.
+ Ví dụ: quả cải, quả chi chi, quả đậu bắp, quả trâm bầu,…
+ Những quả và hạt phát tán nhờ gió thường có các đặc điểm: quả, hạt có cánh được gió chuyển đi xa gốc cây mẹ hoặc quả, hạt có lông được gió đem đi xa.
+ Ví dụ: quả chò, quả bồ công anh, hạt hoa sữa,…
+ Quả và hạt phát tán nhờ động vật có các đặc điểm là quả ăn được: động vật ăn thịt quả, còn hạt thường có vỏ cứng, bền không bị tiêu hóa, nên được gieo rắc khắp nơi cùng với phân của động vật hoặc quả có gai, móc. lông cứng bám vào lông động vật, được động vật mang đi khắp nơi (quả ké, quả cỏ xước, quả cây xấu hổ...).
+ Ví dụ: quả trinh nữ, quá ké đầu ngựa, hạt thông.
Câu 4: So sánh sự khác nhau giữa thực vật bậc cao và thực vật bậc thấp.
Các loài thực vật đa bào, có sự phân tách giữa rễ, thân, lá, có cơ quan sinh sản hữu tính và ngày càng thích ứng được với môi trường sống ở lục địa như rêu, dương xỉ, thực vật hạt trần, thực vật hạt kim... là các loài thực vật bậc cao.
Còn các loài thực vật có cấu tạo đơn giản, phải sống dựa vào môi trường nước, không có cơ quan sinh sản hữu tính như: tảo, nấm... là các loài thực vật bậc thấp.