Thân phận lẻ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Nhắc đến kiếp vợ lẻ đầy đau thương ấy, chắc hẳn ai cũng nhớ tới “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ tài ba ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX qua các tác phẩm thể hiện sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khao khát sống và hạnh phúc tình duyên. Nổi bật trong số đó là chùm thơ “Tự tình” gồm ba bài phản ánh tâm tư tình cảm của Xuân Hương, một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, duyên phận hẩm hiu,... Chính bài thơ “Tự tình” (II) đã khắc họa rõ nét hơn về tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, niềm khao khát hạnh phúc của một kiếp hồng nhan:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân máy, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Dẫn vào bài thơ là một khung cảnh tối tăm, lạnh lẽo của màn đêm hiện ra trước mắt người đọc. Trên cái nền không gian u tối ấy, hình ảnh người phụ nữ hiện lên thật hiu quạnh làm sao:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Thời gian “đêm khuya” đầy yên tĩnh, chỉ có bản thân đối mặt với chính mình là khoảng thời gian buồn bã và cô đơn nhất, nó khiến con người ta dễ bộc lộ cảm xúc, suy tư về cuộc đời, về số phận. Tác giả đã khéo léo sử dụng liên tiếp từ láy “văng vẳng” kết hợp cùng động từ “dồn” để thể hiện sự dồn dập như thúc giục của thời gian trôi qua nhanh, nó không làm cho không gian nơi đây thêm phần huyên náo mà chỉ càng nhấn mạnh sự tĩnh mịch của đêm tối mà thôi.
Chính khoảnh khắc ấy khiến nhà thơ tự soi vào mình, cảm nhận được mình chỉ như “cái hồng nhan” nhỏ bé giữa nền “nước non” bao la. Từ “cái” gắn liền với chữ “hồng nhan” làm cho giọng thơ trĩu nặng xuống, đầy bi thương. Người phụ nữ ấy đã có một thời son trẻ tự hào với: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh tốt đẹp ví như: “tấm lòng son” trọn vẹn, thế mà nay chỉ còn đọng lại chút thân phận nhỏ nhoi, không được tôn trọng. Bấy nhiêu vẫn chưa đủ bẽ bàng, “cái hồng nhan” ấy còn đi cùng với động từ “trơ” nghe đầy cay đắng. “Trơ” phải chăng nói lên sự trơ trọi, cô đơn hay là sự trơ lì, chai sạn với cuộc đời của người phụ nữ ở tuổi tứ tuần? Dẫu sao chăng nữa, nó cũng góp phần đẩy nỗi đau của Xuân Hương lên đến tột cùng, khiến bà phải tìm đến rượu đến trăng để ngỏ cùng bầu tâm sự:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Bà buồn thương cho thân phận bạc bẽo, muốn say để quên sự đời nhưng càng say lại càng tỉnh, không thể nào quên được, cứ thế lại buồn hơn. Hương rượu hay hương tình đều giống nhau, đều đem lại sự cay nồng, đắng chát cho Xuân Hương về nỗi sầu duyên phận.. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên sự dở dang trong tình yêu, cố vẫy vùng để bươn ra khỏi các nghịch cảnh nhưng đâu dễ, càng buồn càng cảm nhận nỗi đau dày xé tâm can. Niềm đau day dứt khôn nguôi ấy như được nhân lên gấp bội qua nghệ thuật ẩn dụ “vầng trăng”. “Vầng trăng” tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Trăng đã xế như tuổi đã luống, tuổi xuân đẹp nhất của người con gái đã trôi qua mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn. Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), vầng trăng của Thúy Kiều là một vầng trăng vỡ, đã từng được trọn vẹn nghe đã đủ xót xa thế nhưng vầng trăng của Xuân Hương mãi mãi chỉ là vầng trăng khuyết không thể tròn nguyên được, nghe còn đau đớn nhiều lần hơn.
Tiếp tục hướng về ngoại cảnh, lấy thiên nhiên để tỏ bày tâm trạng, nỗi lòng của mình, Hồ Xuân Hương viết:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Rêu và đá là hai hình ảnh được hiện lên là những vật thể yếu mềm nhưng lại không chấp nhận số phận thấp bé ấy, chúng phải chăng cũng giống như Xuân Hương, luôn lạc quan giữa nghịch cảnh cuộc đời. Ý thơ cấu trúc tương phản để làm nổi bật cái dữ dội, quyết liệt của sự phản kháng: động từ mạnh “xiên ngang” với “đâm toạc”, trên thì “mặt đất” dưới lại có “chân mây”, đặc biệt ba chữ “rêu từng đám” với “đá mấy hòn” đăng đối, hô ứng nhau làm nổi bật sự sinh sôi, nảy nở cũng giống như sự dồn nén, muốn đấu tranh tự giải thoát khỏi chán chường của nhà thơ. “Rêu từng đám” mềm yếu thế mà cũng “xiên ngang mặt đất” được. Chỉ rải rác “đá mấy hòn” mà cũng có thể “đâm toạc chân mây”. Chính biện pháp đảo ngữ đã diệu kì hóa rêu và đá, cho chúng sức sống mãnh liệt hơn bao giờ hết.