"Một phút thanh nhàn trong thuở ấy,
Nghìn vàng ước đổi được hay chăng?"
("Tự thán" - Nguyễn Trãi)
Đúng như lời Nguyễn Trãi, con người ta dẫu có "nghìn vàng" cũng không thể nào sánh bằng giây phút an nhàn nơi tâm hồn. Chốn quan trường thời xưa ai cũng mong hòng có một chân trong những chức phận trong cung, người muốn thì nhiều mà người không muốn rời bỏ lại ít. Trong cái ít ỏi ấy, ta bắt gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm - một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một vị quan có học vấn uyên thâm, sẵn sàng từ bỏ chốn triều đình bất công để lui về ở ẩn, từ đó cho ra đời bài thơ "Nhàn". Bài thơ là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui, an nhàn và thanh thản nơi đồng quê, không vướng bận chút thị phi:
"Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao."
Mở đầu bài thơ là hoàn cảnh sống hiện tại của nhà thơ. Trạng Trình sử dụng phép điệp "một" để giới thiệu cho ta thấy công việc sinh hoạt hằng ngày của mình. Nếu như lúc trước phải lao tâm khổ trí vì chuyện triều đình thế sự thì giờ đây, ông đã có thể thảnh thơi đầu óc, làm việc như một lão nông chính hiệu. Việc nông vất vả thế nhưng sao qua câu thơ của ông lại trở nên thanh thản, nhẹ nhàng đến vậy? Hai chữ "thơ thẩn" lại khắc họa dáng vẻ của một người đang chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả, ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo quan về ở ẩn. Dẫu cho ngoài kia có ai bon chen vào vòng danh lợi thì tác giả vẫn ung dung, thư thái. Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái nhàn hạ, tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng vui thú điền viên. Ngoài ra, ông còn cho ta thấy thêm về cuộc sống đời thường của mình qua hai câu thơ tiếp sau:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao."
Chỉ vừa đọc qua, ta có thể thấy cách ngắt nhịp đặc biệt của nhà thơ làm nổi bật lên bốn chữ: thu, đông, xuân, hạ. Bốn mùa tuần tự luân phiên nhau cứ thế trôi qua, một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về cuộc sống dân dã của thi nhân. Tuy đơn sơ, đạm bạc nhưng cái gì cũng có đủ, đều là của cây nhà lá vườn. Ông sống một cuộc sống giản dị như thế, cho phép con người ta được tự do, tự tại, không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không cần phải theo đuổi công danh, phú quý, không bị gò bó, ràng buộc vào bất kì khuôn phép nào. Giờ đây, chỉ còn lại mình ông và thiên nhiên bầu bạn, sống hòa hợp với thiên nhiên. Điều đó có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tại, địa vị, tìm về nơi có thể để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:
"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao."
Nhân cách thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. "Vắng vẻ" đối lập với "lao xao", "ta dại" đối lập với "người khôn". Tìm nơi vắng vẻ không phải để lánh đời mà là theo đuổi nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc vinh liền nhục. Nơi vắng vẻ là nơi không có chuyện thị phi, cầu cạnh, bon chen. Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tươi xanh, manh lại sự thanh thơi cho tâm hồn. Chốn lao xao là chốn cửa quyền, trống giong, cờ mở, là đường lộ tấp nập ngựa xe... Đến chốn lao xao là đến chốn chợ lợi đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để giành giật chút quyền lợi đê hèn. Đó là nơi có nhiều nguy hiểm khôn lường. Nói "dại" nhưng chẳng phải "dại", tự nhận mình dại vì nhiều người cho rằng phải đi theo danh lợi mới gọi là khôn. Nhưng đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật của tạo hóa và xã hội. Theo ông, cái khôn của bậc chính nhân quân tử là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hòa hợp với thiên nhiên thuần khiết. Ông đã khéo léo sử dụng phép chơi chữ kết hợp với nói ngược nghĩa để bộc lộ triết lý sâu sắc của mình. Cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái "say" là để "tỉnh" và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:
"Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao."