Trạng thái sốt được điều hòa bởi vùng dưới đồi (một cấu trúc trong não bộ, thuộc hệ thần kinh trung ương). Khi bị sốt, lượng prostaglandin E2 (PGE2)(c) ở vùng dưới đồi tăng lên, làm tăng giá trị của điểm điều nhiệt (set-point). Khi điểm điều nhiệt đạt giá trị mới, các tế bào thần kinh ở trung tâm vận mạch sẽ bắt đầu co lại và tế bào thần kinh cảm giác độ ấm sẽ giảm tốc độ truyền tin đồng thời tăng sản xuất nhiệt ở vùng ngoại biên(2).
Sự co mạch ngoại biên gây giảm sự lưu thông của máu đến tứ chi, tạo ra cảm giác lạnh bất thường ở tay và chân. Máu bị rút khỏi vùng ngoại vi về các nội tạng, từ đó gây mất nhiệt trên da khiến bệnh nhân cảm thấy lạnh nhưng lại làm tăng nhiệt độ trung tâm(d) lên 1-2°C(2).
Song song đó, quá trình sinh nhiệt ở chất béo cũng góp phần làm tăng nhiệt độ trung tâm. Quá trình này diễn ra bằng cách tách protein, giải phóng adenosine triphosphate (ATP) và nhiệt. Sự kết hợp giữa sinh nhiệt và giữ nhiệt chiếm phần lớn thời gian cơn sốt. Ngoài ra còn có sự gia tăng sản xuất nhiệt từ gan(2).
Rùng mình (ớn lạnh) có thể giúp tăng sản xuất nhiệt từ cơ bắp, nhưng không phải lúc nào cũng xảy ra. Rùng mình thường xảy ra khi nhiệt độ tăng nhanh để phù hợp với điểm điều nhiệt mới trong cơn sốt(2) trong khi cơ thể chưa thích ứng kịp.
Ở người, để tăng nhiệt độ cơ thể chúng ta thường đến nơi ấm hơn và mặc thêm quần áo. Các quá trình giữ nhiệt (co mạch), sản xuất nhiệt (rùng mình, tăng hoạt động trao đổi chất) và hành vi làm ấm cơ thể sẽ tiếp tục cho đến khi nhiệt độ của máu cung cấp cho tế bào thần kinh vùng dưới đồi tương đương với nhiệt độ do điểm điều nhiệt quy định(2).
Sau đó, khi giá trị điểm điều nhiệt vùng dưới đồi giảm về mức ban đầu, các quá trình hạ nhiệt được tăng tốc thông qua sự giãn mạch và đổ mồ hôi. Việc hạ thấp điểm điều nhiệt có thể là do giảm nồng độ pyrogens(e) hoặc sử dụng thuốc hạ sốt. Đổ mồ hôi và giãn mạch giúp hạ nhiệt cho đến khi nhiệt độ của máu cung cấp cho vùng dưới đồi tương đương với mức nhiệt độ mới mà điểm điều nhiệt quy định(2).